nghiên cứu khoa học về đồng tính

1. LỜI CẢM ƠN. Sau quá trình học tập và nghiên cứu hết sức nghiêm túc, tôi đã hoàn. thành đề tài khóa luận tốt nghiệp “Hôn nhân đồng tính nhìn từ góc độ quyền. con người”. Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc của mình đến Ban chủ nhiệm. khoa Luật đã gợi ý SỐNG CUỘC SỐNG CỦA MÌNH: Nghiên cứu tại hà nội, huế và tp hồ chí minh về công khai xu hướng tính dục. Nghiên cứu định tính về trải nghiệm với việc công khai xu hướng tính dục nhằm: Mô tả lại những trải nghiệm về công khai xu hướng tính dục của LGBT trẻ tuổi ở Việt Nam để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho những người đang trong giai đoạn cân nhắc lựa chọn công khai. phương pháp khoa học kết hợp định lượng và định tính, các tác giả đã luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn, trong đó có kinh tế trang trại, từ đó đề ra những định hướng và giải pháp cho phát triển kinh Năm 1956, ông thành lập ở Genève Trung tâm nghiên cứu quốc tến về nhận thức luận khoa học (Centre international d’ épistemologie Scientifique), với sự tham gia của nhiều nhà Bác học lớn đương thời như Albert Einstein (Vật lý), B.Grize (Toán và Lôgic), W.Mc.Cullôch (Sinh học thần kinh Lĩnh vực tâm lý học đã nghiên cứu sâu rộng về đồng tính luyến ái như một xu hướng tính dục của con người. Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đã đưa đồng tính luyến ái vào Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Phiên bản Thứ nhất vào năm 1952, nhưng sự phân loại đó đã được xem xét kỹ lưỡng 1. Tính mới trong nghiên cứu khoa học. Tính mới, tính độc đáo và tính tiên phong là ba khái niệm quan trọng liên quan đến xuất. bản khoa học (Morgan 1985, 2), trong đó tính mới là một khía cạnh quan trọng của bất kỳ. nghiên cứu nào, đặc biệt là trong thời hiện đại. Tính Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. 1 Văn vở hơi kém nên trình bày nội dung chính thôi nhé. Phần này chỉ nói về xu hướng tình dục của nam giới vì qua khảo sát cho thấy trên 80% phụ nữ song tính hoặc đồng tính Xu hướng tình dục của đàn ông chia làm 4 dạng Thẳng loại này là nhiều nhất và tất cả dạng này đều kỳ thị đồng tính. Song tính dạng này nhiều thứ 2. Có nhiều người tưởng mình thẳng nhưng thực tế họ thích cả 2 giới. Nếu bạn là trai nhưng gặp trai đẹp cũng xao xuyến thì nhiều khả năng bạn song tính. Loại này có thể bị lây nếu ở cùng người đồng tính Đồng tính Đơn tính không có cảm hứng tình dục - 2 Trước tôi đọc bộ Hellblazer bên DC có nhân vật chính Constantine là ng song tính thì phải. 3 Văn vở hơi kém nên trình bày nội dung chính thôi nhé. Phần này chỉ nói về xu hướng tình dục của nam giới vì qua khảo sát cho thấy trên 80% phụ nữ song tính hoặc đồng tính Xu hướng tình dục của đàn ông chia làm 4 dạng Thẳng loại này là nhiều nhất và tất cả dạng này đều kỳ thị đồng tính. Song tính dạng này nhiều thứ 2. Có nhiều người tưởng mình thẳng nhưng thực tế họ thích cả 2 giới. Nếu bạn là trai nhưng gặp trai đẹp cũng xao xuyến thì nhiều khả năng bạn song tính. Loại này có thể bị lây nếu ở cùng người đồng tính Đồng tính Đơn tính không có cảm hứng tình dục - Tài liệu đâu? 4 Trước tôi đọc bộ Hellblazer bên DC có nhân vật chính Constantine là ng song tính thì phải. Dc nhiều char song tính lắm 5 Toi đ biêt nhưng 99% vozers toi đả gặp ỡ SG đều chữi đồng tinh trên mang nhưng thich dooddeed ngoài đơi. Nòai người co xu hướng nói nhiều vê những cai minh quan tâm mà. 6 Dc nhiều char song tính lắm Nhưng được mỗi anh này ngầu nhất. Đi xuống địa ngục lừa gạt ác quỷ như đi chợ. 7 vì qua khảo sát cho thấy trên 80% phụ nữ song tính hoặc đồng tính Cho mình xin nguồn số liệu về khảo sát này 8 Tôi nghĩ nên nghiên cứu khoa học cách diệt trừ bọn đồng tính 9 Thằng trong avata 1 không bê đê thì cứ chặt cu tủ lạnh đi 11 Văn vở hơi kém nên trình bày nội dung chính thôi nhé. Phần này chỉ nói về xu hướng tình dục của nam giới vì qua khảo sát cho thấy trên 80% phụ nữ song tính hoặc đồng tính Xu hướng tình dục của đàn ông chia làm 4 dạng Thẳng loại này là nhiều nhất và tất cả dạng này đều kỳ thị đồng tính. Song tính dạng này nhiều thứ 2. Có nhiều người tưởng mình thẳng nhưng thực tế họ thích cả 2 giới. Nếu bạn là trai nhưng gặp trai đẹp cũng xao xuyến thì nhiều khả năng bạn song tính. Loại này có thể bị lây nếu ở cùng người đồng tính Đồng tính Đơn tính không có cảm hứng tình dục - Đâu nghiên cứu khoa học đâu? Có thấy nguồn chỗ nào đâu? 12 tôi thì là loại "cục tính'' khi gặp mấy thằng "bóng chó'' đồng tính ko nói tới GAY lịch sự . 13 Toi đ biêt nhưng 99% vozers toi đả gặp ỡ SG đều chữi đồng tinh trên mang nhưng thich dooddeed ngoài đơi. Nòai người co xu hướng nói nhiều vê những cai minh quan tâm mà. Coi bộ thầy cũng có xu hướng thích gặp vozers ngoài đời quá ha... 14 Văn vở hơi kém nên trình bày nội dung chính thôi nhé. Phần này chỉ nói về xu hướng tình dục của nam giới vì qua khảo sát cho thấy trên 80% phụ nữ song tính hoặc đồng tính Xu hướng tình dục của đàn ông chia làm 4 dạng Thẳng loại này là nhiều nhất và tất cả dạng này đều kỳ thị đồng tính. Song tính dạng này nhiều thứ 2. Có nhiều người tưởng mình thẳng nhưng thực tế họ thích cả 2 giới. Nếu bạn là trai nhưng gặp trai đẹp cũng xao xuyến thì nhiều khả năng bạn song tính. Loại này có thể bị lây nếu ở cùng người đồng tính Đồng tính Đơn tính không có cảm hứng tình dục - Nguồn đâu và phải định nghĩa lại khái niệm thích khái niệm thích trong giới tính nó phải liên quan đến nhu cầu sinh lí có nghĩa là thích ịt vì vậy người song tính có nghĩa là người thích ịt cả nam và nữ nếu có nghiên cứu nào chỉ ra 80% phụ nữ thích ịt cả nam lẫn nữ thì chỉ ra còn khái niệm thích bình thường được hiểu theo nghĩa chiến hữu bạn nhậu hay chị em bạn gì cái đó thì bình thường vãi như cân đường hộp sữa tôi đây thích ịt vài phụ nữ và thích chơi bời nhậu nhẹt với cả đống đàn ông nhưng điều đó éo có nghĩa là tôi song tính thằng nào gạ ịt tôi tôi đánh nó phù mỏ 15 tôi thì là loại "cục tính'' khi gặp mấy thằng "bóng chó'' đồng tính ko nói tới GAY lịch sự . Thế thì bác cũng thuộc tập hợp "bóng chó" rồi, tại cùng vế thì mới hay ghét nhau. 16 Thế thì bác cũng thuộc tập hợp "bóng chó" rồi, tại cùng vế thì mới hay ghét nhau. tránh xa tao ra cái loại "súc vật bóng chó tởm lợm hạ đẳng'' chúng mày... cái thứ dơ bẩn, làm ô uế nhân loại. 17 Đồng tính là bệnh, chấm hết Sent from Xiaomi Mi Note 10 Lite via nextVOZ Trần Ngọc Hiếu “Một cộng đồng chỉ được coi là thiểu số khi nó tiềm ẩn những đe dọa nào tới số đông còn lại, dù thực hay tưởng tượng. Và hãy nhớ, không có mối đe dọa nào là hoàn toàn không có thực cả…Người thiểu số cũng là người, con người, chứ không phải thiên thần”. Christopher Ísherwood1 Văn học đồng tính queer literature là gì? Là văn học được viết bởi các tác giả đồng tính? Là các tác phẩm lấy đời sống của người đồng tính làm đề tài? Là tác phẩm đề cập, khắc họa hình tượng nhân vật đồng tính? Văn học đồng tính được xác lập nhờ một lối viết đặc biệt hay đó còn là dòng văn học được hình thành bởi tưởng tượng của một cách đọc đặc biệt? Đó những câu hỏi dường như chối từ những khẳng định quả quyết. Bởi lẽ đồng tính – như một căn cước giới tính bị xem là thiểu số – luôn phải đối diện với những định kiến, luôn có khả năng bị gây tổn thương – thường phải tìm đến những hình thức ngụy trang để tự biểu hiện; như một kiến tạo của diễn ngôn, đồng tính là một thứ diễn ngôn bị trấn áp, luôn bị ngoại biên hóa trong lịch sử văn hóa, nó thường là một tiếng nói bị khuất lấp, bị phân mảnh; như một tập hợp các ký hiệu trình hiện representation, đó lại là một tập hợp các cái biểu đạt không cố định, không chặt, trôi nổi, tùy thuộc vào các ngữ cảnh văn hóa-lịch sử. Văn học đồng tính ở Việt Nam có diện mạo như thế nào, có đặc điểm gì? Với câu hỏi này, tính phức tạp còn tăng lên nhiều lần. Thứ nhất, sự mô tả người đồng tính trong lịch sử thuộc về phần vi lịch sử micro-history, một thứ tiểu tự sự tồn tại dưới hình thức các mảnh vỡ, các vết tích cần đến nhiều nỗ lực khảo cổ, khớp nối, nhất là trong tình trạng các tư liệu lịch sử ở ta còn manh mún. Thứ hai, không thể mô tả diện mạo văn học đồng tính như thực thể biệt lập với các thực hành văn hóa khác ngôn ngữ, tôn giáo, thời trang, nghệ thuật, văn hóa đại chúng, truyền thông,… Ở đó, người đồng tính vừa tự đánh dấu, vừa bị đánh dấu bởi các biệt ngữ, vừa lợi dụng, vừa bị lợi dụng bởi các hoạt động biểu hành trong đời sống để biểu hiện mình. Thứ ba, viết và đọc văn học đồng tính ở Việt Nam có điểm gì khác biệt trong việc biểu hiện phái tính so với loại hình nghệ thuật khác; ngôn ngữ tạo ra những thuận lợi đồng thời gây ra những trở ngại gì trong việc thể hiện và tiếp nhận hình tượng người đồng tính? Thứ tư, ý nghĩa của việc đọc/ phê bình đồng tính queer reading/ queer criticism trong ngữ cảnh Việt Nam là gì là công khai hóa những mã giới tính vốn thường chìm trong các văn bản, là bóc trần những lớp vỏ ngụy trang cho tâm lý sợ đồng tính homophobia, là một động thái gắn kết phê bình văn học với các hoạt động xã hội đấu tranh cho quyền của người đồng tính đang diễn ra khá sôi nổi gần đây; là việc tìm kiếm một khuynh hướng, một “gu” thẩm mỹ riêng, nếu có, của dòng văn học này? Với bài viết này, những câu hỏi đặt ra ở trên chưa thể tìm được câu trả lời thấu đáo ngay. Một cách thẳng thắn, những gì trình bày ở đây, trước hết, giống như một tổng thuật về lịch sử của dòng văn học đồng tính ở Việt Nam, từ những hình thức ngụy trang trong lịch sử đến các tự thuật công khai thú nhận giới tính hiện nay. Mặt khác, bài viết còn đưa ra một dự phóng để suy nghĩ xa hơn về văn học đồng tính nhằm giải phóng hình dung về dòng văn học này như một “ghetto” của một cộng đồng thiểu số. Từ lý thuyết đồng tính queer theory đến văn học đồng tính ở Việt Nam trong lịch sử Thực ra dịch “queer theory” là lý thuyết đồng tính có lẽ là cách dịch còn hẹp nghĩa. Bởi mối quan tâm của lý thuyết này không chỉ giới hạn trong phạm vi vấn đề đồng tính. Nói như Eve Kosofy Sedgwick, một học giả hàng đầu của lý thuyết này, thì “queer” có thể quy chiếu tới “một mạng lưới mở của những khả thể, những kẽ hở, những sự chồng chéo, những cộng hưởng và xung đột, những sai lẫn và những thái quá về ý nghĩa khi những thành tố cấu thành phái tính của bất cứ ai, khuynh hướng tình dục của bất cứ ai không phải/ không thể là những cái biểu đạt nguyên khối”2. Một cách ngắn gọn, từ “queer” hàm chứa trong nó tập hợp các biểu hiện cho thấy giới tính là một ý niệm thuộc thể lỏng hơn là một khối rắn chắc, xác định, đóng kín. Sự hình thành thuyết đồng tính như một dòng mạch tư tưởng trước hết có liên hệ mật thiết với các phong trào chính trị – xã hội đấu tranh cho quyền bình đẳng của người đồng tính, mà sự kiện thường được dẫn ra như mốc quan trọng nhất là cuộc nổi loạn của những người đồng tính tại quán bar Stonewall, thành phố New York, nước Mỹ năm 1969. Stonewall khi đó được biết đến như một quán bar dành cho cộng đồng gay, đặc biệt là dân gay ở tầng lớp dưới đáy xã hội như những người đồng tính vô gia cư, mại dâm nam, những người thích ăn mặc giả gái,… Vụ đụng độ giữa những người đồng tính với cảnh sát này được ví như sự phát động đầu tiên cho những hoạt động của phong trào giải phóng giới đồng tính diễn ra sau đó, bắt đầu từ Mỹ. Lý thuyết đồng tính được xem như điểm tựa tư tưởng của phong trào này. Ở phương diện này, sự xuất hiện của lý thuyết đồng tính có được sự cộng hưởng tinh thần với các lý thuyết khác như nữ quyền luận, phê bình chủng tộc/ sắc tộc, hậu thực dân luận,… Chúng phản ánh khúc ngoặt của lý thuyết văn hóa/ văn học từ cuối thập niên 60 thế kỷ trước hướng đến cái ngoại biên của văn hóa, hướng đến các bộ phận thiểu số, chất vấn tính hợp thức của các khung tri thức được xác lập bởi ý thức hệ thống trị. Thuyết đồng tính cho đến giờ vẫn là một dòng mạch lý thuyết phát triển năng động, quy tụ nhiều nhà tư tưởng, nhiều học giả mà những kiến giải của họ về giới, về tình dục thực chất còn ảnh hưởng rất mạnh đến sự hình thành kiểu tư duy phê phán mới. Đầu tiên phải nhắc đến Michel Foucault với công trình có ý nghĩa nền tảng cho lý thuyết đồng tính – bộ ba History of Sexuality Lịch sử tính dục. Tính đột phá của công trình này nằm ở chỗ Foucault đã giải phóng tính dục, giới tính ra khỏi quan điểm bản chất luận, tự nhiên luận, theo đó, ông cho rằng giới tính, tính dục là ý niệm được tạo lập bởi các diễn ngôn. “Tác phẩm của Foucault quan trọng vì nó cho thấy tính dục không đơn giản là sự biểu hiện tự nhiên của một động cơ hay ham muốn bên trong nào đó. Các diễn ngôn về tính dục liên quan đến sự vận hành của quyền lực trong các mối quan hệ người cũng như chúng chi phối sự tạo lập bản sắc cá nhân. Bằng việc nhấn mạnh đến những cách thức mà tính dục được viết lên/ viết vào thân thể, những cách làm cho tình dục đồng tính trở thành sự vô hình hay hữu hình về văn hóa, Foucault đã bắt đầu phá vỡ ý niệm về tính dục như một dữ kiện đời sống trong suốt”3. Sau Foucault, có thể nhắc đến nhiều học giả tầm cỡ khác như Judith Butler, Eve Kosofy Sedgwick, Lee Edelman, Ann Cvetkovich, Michael Warner,…; mỗi người lại tiếp cận vấn đề “queer” một cách khác nhau và phát triển tư tưởng rất phức tạp. Nên ở một mức độ nào đó, có thể hình dung “queer theory” hiện nay đang tồn tại ở dạng số nhiều “queer theories”. Chúng còn móc nối với những chủ điểm nghiên cứu khác như chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc, phê bình sinh thái,… Có lẽ điểm mấu chốt chung nhất ở các thực hành của các học giả chuyên sâu về thuyết đồng tính là “gỡ hành vi tính dục sex acts ra khỏi bản sắc của phái tính gender identity”, từ đó chứng minh “tính dục về bản chất không phải là một đặc điểm cá nhân mà là một phạm trù văn hóa có sẵn”4. Judith Butler và Eve Kosofy Sedgwick sẽ phát triển xa hơn luận đề của Foucault cho rằng giới tính, tính dục mang tính diễn ngôn khi họ thống nhất với nhau ở quan điểm giới tính, tính dục là các diễn ngôn biểu hành “Người ta không sinh ra là đàn bà, đàn ông hay đồng tính người ta trở thành đàn bà, đàn ông hay đồng tính chỉ trong ngữ cảnh sự trình diễn, biểu hành hay không trình diễn, biểu hành những hành vi nhất định nào đó. Đồng tính không gọi tên một trạng thái tồn tại nó biểu thị một hữu thể being thực hiện một số hành vi nhất định nào đó, kẻ được nhận diện và được phân loại bằng những phạm trù xã hội hơn là những thuộc tính bản chất”5. Anh thuộc giới nào, theo đó, không phải được xác định theo những bản chất được mặc định là “trời cho”, “sinh ra đã thế” mà điều này phụ thuộc vào việc anh làm gì, anh biểu hành, anh trình diễn những hành vi gì và như thế nào trong những ngữ cảnh văn hóa cụ thể. Đến đây, có thể thấy, thuyết đồng tính không chỉ đơn giản nhằm biện hộ cho quyền của người đồng tính. Đồng tính có thể xem như một ý niệm ở giữa, một khoảng không gian thứ ba, từ đó, cho thấy những đối lập nhị nguyên về phái tính thực chất rất bất ổn. Nếu đồng tính nói riêng, phái tính nói chung đều là những quy ước diễn ngôn thì cũng có thể tạo ra sự kháng cự ngay trong bản thân diễn ngôn, có thể phá vỡ những quy ước, những thương thỏa này để xác lập một không gian tự do hơn, rộng rãi hơn, linh hoạt hơn và độ lượng hơn cho mỗi chủ thể. Thuyết đồng tính, cũng như nhiều lý thuyết văn hóa đương đại, trong khi tưởng như làm lung lay những phạm trù nền tảng, kiên cố vốn tạo nên trật tự và sự thống nhất của bức tranh thế giới, thực ra lại tạo ra những đường thoát, những kẽ hở để con người tự giải phóng mình, tự xác lập giá trị tự thân, thay đổi tương quan quyền lực trong các mối quan hệ người, trong quan hệ giữa con người với thế giới. Đấy là lý do vì sao lại có xu hướng “queering” tạm dịch là “làm rối”/ “làm nhiễu” từ nhãn quan đồng tính luận các phạm trù khác như dân tộc, chủng tộc, tự nhiên,… Trở thành “queer” như thế cũng có thể hiểu trở thành một cái gì đó có khả năng phản tư, chất vấn trước các ý niệm, giá trị tưởng như đã được mặc định yên ổn, được coi là bình thường hay chuẩn mực. Tóm lại, nếu bản thân “queer”, và rộng hơn là “phái tính”, là những phạm trù biểu hành, là những “vai diễn” trong những ngữ cảnh văn hóa cụ thể thì văn học đồng tính là một ý niệm mang đặc tính của thể lỏng. Nhưng thực ra thì ngay cả các ý niệm như văn học nữ hay văn học nam giới cũng không xác định, không rõ ràng hơn văn học đồng tính là bao nhiêu. Bài viết này đề xuất một định nghĩa “lỏng” về văn học đồng tính đó không phải là dòng văn học được xác lập bởi một nhóm tác giả đặc thù hay xoay quay những nhân vật có độ nhiễu về bản sắc giới tính. Văn học đồng tính nên được xem như một dải phổ của những biểu hiện về tình trạng mơ hồ và xu hướng lệch chuẩn về giới tính, thân thể, tình dục vốn rất đa dạng, phức tạp từ quan hệ luyến ái đồng giới, hiện tượng giả nam/ giả nữ, hiện tượng bị thiến, hiện tượng đổi vai “giới” trong nghệ thuật tự sự, các hình thức ngụy trang giới tính,… Một dòng văn học đồng tính ở Việt Nam, nếu được hiểu như trên, trước hết, cần phải được khảo sát từ trong văn học dân gian, nơi văn học tồn tại trong trạng thái nguyên hợp với các hình thái folklore khác như tín ngưỡng, hội hè, sân khấu dân gian,… – những hình thái mang tính chất trình diễn rõ nét, tạo điều kiện thuận lợi cho các hành vi bộc lộ, đảo trang hay vượt rào giới tính. Một sinh hoạt như lên đồng trong Đạo Mẫu cho thấy tín ngưỡng dân gian không chỉ có thể hiểu như một hình thức cho phép sự hoán vị, vượt rào giới tính diễn ra công khai, mà cần được xem như một không gian nơi các chủ thể “queer” đoạt quyền lực của mình, vượt lên những kỳ thị, trấn áp diễn ra đối với họ trong không gian thường nhật và ngay trong ngôn ngữ thường nhật. Một vở chèo như Quan Âm Thị Kính có thể được diễn giải như một dụ ngôn về khả năng nhiễu của những cái biểu đạt giới tính và bi kịch của vở diễn bắt nguồn từ độ nhiễu ấy. Văn học trung đại Việt Nam được hình thành dưới ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, một học thuyết tư tưởng lấy nam giới làm trung tâm. Tư tưởng nam quyền vô hình hóa, ngoại vi hóa các giới tính khác một tích truyện như Lưu Bình – Dương Lễ cho thấy rõ phụ nữ bị làm rỗng, bị công cụ hóa để tôn vinh đạo lý tình bạn giữa những người đàn ông trong xã hội phong kiến. Đương nhiên, đồng tính cũng sẽ bị ngoại vi hóa, bị đè nén trong ngữ cảnh văn hóa như vậy. Chỉ có điều như Tạ Chí Đại Trường trong nghiên cứu rất công phu của mình – Sex và triều đại – cho thấy, sự bất thường về giới tính trong các xã hội phương Đông chỉ được nhìn nhận như một hiện tượng gây tò mò, ngạc nhiên và cùng lắm là bị chế giễu, nhạo báng chứ không phải là một tội lỗi như ở các xã hội phương Tây6. Văn học đồng tính Việt Nam thời trung đại có thể được chú ý ở hai phương diện kiểu tác giả và sự thể hiện hình ảnh người đồng tính, chuyển giới, bị thiến hoạn. Ở phương diện thứ nhất, Tạ Chí Đại Trường đã có những phân tích rất thú vị về một hiện tượng khá phổ biến trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XVIII các tác giả nhà nho “núp bóng đàn bà”, nhập vào vai nữ để ký thác tâm sự trong các tác phẩm của Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Thiều,… Tạ Chí Đại Trường gọi đây là hiện tượng “nhà nho lại cái”, một hiện tượng được hình thành trên những cơ sở văn hóa – lịch sử những áp lực từ tầng lớp xuất thân, từ hệ thống kiến thức ngoại lai mà nho sĩ phải tiếp thu, địa vị thường có xu hướng bị ngoại biên hóa trong cấu trúc xã hội, bối cảnh loạn lạc của thời đại, sự trấn áp của đạo đức Nho giáo,… Tất cả điều này khiến cho các nhà nho phải tìm đến một phương thức để giải tỏa ẩn ức. Tạ Chí Đại Trường nhận xét “Sự biến hình, dù trong tâm tưởng, và vô ý thức, cũng đã có nguyên nhân từ sự đè nén của quyền lực chính trị, của đạo lý đã bóp mềm con người… Dạng hình mượn làm người nữ phối hợp với sự yếu mềm về tâm tính, đủ cho sự giả trang của nho thần che mắt được quyền lực bên trên”7. Chắc hẳn sẽ còn cần phải thảo luận liệu hiện tượng nhập vai nữ để tự sự này có thể xem như là chuyển vị nhục cảm đồng tính vào trong nghệ thuật ngôn từ hay chưa trên thực tế, Cung oán ngâm hay Chinh phụ ngâm đều có những câu thơ đẫm chất nhục cảm, thể hiện những cung bậc mãnh liệt của dục vọng, của thân xác hay đơn giản chúng ta chỉ nên thận trọng coi đây là một kỹ thuật tự sự. Nhìn rộng ra, cũng phải xem hình thức thác lời bằng cách “chuyển giới” tưởng tượng này trong mối liên hệ với một đề tài khá phổ biến trong thơ ca cổ điển là đề tài “khuê oán”, trong đó các tác giả xuất sắc nhất của mảng đề tài này chủ yếu là các nhà thơ nam. Nhưng hiện tượng “nhà nho lại cái” cho phép ta chứng thực ngay một điều khi nam giới trở thành trung tâm của ý thức hệ, nó không chỉ ngoại vi hóa, vô hình hóa, tạo nên những trấn áp đối với những giới tính khác, ý niệm nam tính còn trấn áp, đè nén chính bản thân của người đàn ông. “Queer” trong tư duy tự sự trung đại có thể được xếp vào phạm trù “kỳ”, được hiểu như là “cái lạ thường”, “cái kỳ lạ”,… Sự xuất hiện của những kẻ có biểu hiện bất thường về giới tính thường được mô tả gắn liền với những biến cố bất an của xã hội. Theo khảo sát của Nguyễn Thanh Tùng, các hình tượng nữ được miêu tả theo hướng nam hóa xuất hiện nhiều hơn xu hướng ngược lại – nam bị nữ hóa8. Một ghi chép về hình tượng Bà Triệu trong sáchGiao Chỉ ký do Tăng Cổn, một quan chức ở Giao Châu thế kỷ IX viết, sau này được chép lại trong Đại Việt sử ký toàn thư, có thể được xem như là một cách mô tả “queer” hóa “Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái em họ Triệu, vú dài 3 thước không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các huyện trong quận, thường mặc áo ngắn Bắc Vàng đi guốc gỗ, ngồi đầu voi đánh nhau, sau chết làm thần”9. Bà Triệu được tái hiện ở đây như là một hình tượng dị kỳ không chỉ ở kích thước được phóng đại quá cỡ của bầu vú mà ở các biểu hiện nam hóa lồ lộ thông qua các hành vi vốn được mặc định là đặc quyền của nam giới và đặc biệt ở việc “không lấy chồng” – một sự lệch chuẩn khỏi khuôn khổ của phụ nữ rất khó chấp nhận được từ ý thức hệ Nho giáo. Trường hợp nam bị nữ hóa còn lại được một ghi chép trong sử sách là câu chuyện về An Vương Tuân, con cả của vua Lê Hiến Tông. Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn ghi rằng An Vương Tuân vốn là người thông minh học rộng, sức lực hơn người nhưng tính khí nóng nảy, ngang bướng, đặc biệt lại thích mặc áo của phụ nữ, từng có âm mưu dùng thuốc để đầu độc chính mẹ mình và do đó không được lựa chọn làm người nối ngôi10. Tạ Chí Đại Trường đã phân tích cách Lê Quý Đôn kể câu chuyện về An Vương Tuân để đi đến một nhận xét sâu sắc “Lời của Lê Quý Đôn làm nổi sự hả hê của một người thấy có kẻ trở về với Chính giáo sửa bỏ nết cũ, thờ mẹ rất hiếu’. Nhưng khi sử gia vô tình dùng ngôn từ kinh sách “giữ mình kín đáo” để chứng tỏ thêm sự đắc thắng của đạo lý thì đồng thời cũng cho chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm của một con người lạc loài với giới tính xác định vốn có từ trong căn bản mà phải bị đàn áp, nén sâu”11. Tóm lại, khi văn học trung đại với ý thức hệ Nho giáo định vị người đàn ông ở trung tâm thì đồng thời nó cũng nảy sinh các diễn ngôn kháng cự trong lòng nó. Đó là các diễn ngôn có xu hướng “queer” hóa trong thơ văn của các nhà nho lại cái, chúng mềm hóa ý niệm về nam tính theo lý tưởng Nho giáo. Nhưng nếu xem xét cách thể hiện hình tượng bất thường giới tính trong văn chương trung đại thì ta lại thấy rõ định kiến vẫn bị dồn về phía phụ nữ. Văn học hiện đại với sự mở cửa cho ý thức cá nhân được công khai tự biểu hiện. Môi cảnh xã hội được hiện đại hóa dưới ảnh hưởng của văn minh phương Tây, dẫu vậy, vẫn tồn tại những rào cản buộc các chủ thể đồng tính phải tìm đến các hình thức ngụy trang cho những dục cảm của mình. Bước đầu đã có những nghiên cứu đáng chú ý về cơ chế và các hình thức ngụy trang và chuyển vị dục cảm đồng tính trong sáng tác của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, thậm chí ở cả những người tù cộng sản được ghi lại trong hồi ký của Trần Huy Liệu12. Ở đây, chúng tôi xin dừng lại để thảo luận sâu hơn về trường hợp Xuân Diệu, vừa như một tác giả đồng tính, vừa như đối tượng “queer” được tái hiện qua diễn ngôn của kẻ khác hồi ký Tô Hoài, các giai thoại văn chương. Trên thực tế, chưa thể nói Xuân Diệu là nhà thơ “come-out” tự giác trong sáng tác của mình. Dục cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu phải tự “chuyển vị” mượn chữ của Nguyễn Quốc Vinh, phải ngụy trang dưới nhiều biểu hiện khác nhau chuyển vị qua một đối tượng khác, gắn với một không gian khác trường hợp điển hình là bài thơ “Tình trai”, qua các ám thị, các biểu tượng con thú hoang, bờ cát,… hay qua trạng thái tự si, tự mê chính bản thân mình13. Có hai điều đáng nói ở đây thứ nhất, hình thức ngụy trang giới tính trong thơ Xuân Diệu bị quy định bởi chính ý thức hệ lãng mạn của nhà thơ. Dục cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu nghiêng về sự ngưỡng vọng thân thể nam giới, nghiêng về những đồng điệu tinh thần, nó e dè, thậm chí sợ hãi tình dục, xem tình dục như là nhân tố có khả năng hủy hoại thân thể, dẫn đến tình trạng con người thù ghét, xa lạ với thân thể của chính mình. Trong truyện ngắn Thân thể, Xuân Diệu đã mượn lời nhân vật Khuông – một người đàn ông đã có vợ nói với các bạn nam thanh niên “Ồ? Các em bé của tôi thèm khát đến thế sao? Tội nghiệp. Các em còn mới mẻ thực. Thân thể! ôi thân thể của chúng ta! Tôi đã giết hắn đã rõ lắm rồi… Ta nghĩ cái thú toại thịt là thú của thiên đường, ta mong được lên đến từng trời thứ bảy; ta ao ước, khao khát, thèm thuồng, van xin; chỉ vì các anh chưa được nếm một cái quả, nên các anh chảy nước miếng, các anh ăn trước bằng tưởng tượng. Nhưng hai tuần, một tháng sau khi đã bước bước đầu! Đê vỡ hẳn, nước trào ào, không ai gìn giữ nữa. Ta vồ lấy thú vui, như mất trí. Tôi biết một người chi tiêu trọn cái thanh niên của họ trong hai tháng mà thôi”14. Ở đây, cần nói thêm định kiến về tình dục, xem nhục cảm như là thứ tiềm tàng khả năng gây tha hóa là một định kiến phổ biến trong thơ lãng mạn. Ta có thể kiểm chứng điều này trong thơ của Vũ Hoàng Chương chẳng hạn. Thứ hai, nhiều bài thơ ngụy trang xúc cảm đồng tính của Xuân Diệu tinh vi đến mức nhà phê bình nếu không dựa vào những giai thoại bên ngoài văn bản sẽ không phát hiện ra15. Điều này đặt ra vấn đề cần phải suy ngẫm tính hợp thức của phê bình văn học đồng tính là gì? Phải chăng phê bình văn học đồng tính luôn cần phải tiền giả định một chủ thể sáng tác có vấn đề về bản sắc giới tính? Phê bình văn học đồng tính có khi nào giống như một hành vi thám tử truy tìm những chứng cứ trong và ngoài văn bản văn chương để phát lộ bí mật về giới tính mà nhà văn cố tìm cách che đậy nó bằng những ký hiệu ngôn từ vốn khó trực quan hơn các nghệ thuật có yếu tố thị giác? Phê bình văn học đồng tính, trong trường hợp này, đứng trên một lằn ranh mong manh giữa mục đích khám phá cơ chế tâm lý sáng tạo của tác giả trong đó sự nhận thức về giới tính là một nhân tố quan trọng với nguy cơ làm tổn thương chính những tác giả? Bản thân Xuân Diệu cũng là đối tượng được tái hiện trong các tự sự khác về đề tài đồng tính. Có thể giai thoại về giới tính của nhà thơ đã ngấm ngầm rò rỉ từ lâu nhưng nó chỉ được chính thức được ghi chép lại lần đầu trong hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài. Qua câu chuyện về giới tính của Xuân Diệu mà Tô Hoài kể lại, có thể thấy phản ứng khá phổ biến của xã hội đương thời và có lẽ cho đến bây giờ cũng vẫn vậy về đồng tính 1/ đồng tính là thứ khiến người ta sợ hãi, né tránh như một thứ bệnh dị kỳ “Hằng đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để tỏ tình âu yếm. Các bạn của ông ấy rất sợ, vì vậy, cứ đêm đêm, họ lại tỵ nạn sang nhà khác, không ai dám ở chung với Xuân Diệu”16; 2/ đồng tính như một tình trạng khiến bản thân mình phải thấy xấu hổ nỗi hổ thẹn bắt nguồn từ chỗ cá nhân bị bóc trần bí mật của mình trước đám đông, cái riêng tư của bản thân bị công cộng hóa. Việc Xuân Diệu phải viết bản kiểm điểm cho những hành vi bộc lộ ham muốn nhục cảm của mình, về bản chất, đồng dạng với cơ chế phạt vạ phụ nữ chửa hoang trong xã hội cũ ở cả hai trường hợp, bí mật của cá nhân bị rêu rao, bị công khai để thỏa mãn cảm xúc cộng đồng, thỏa mãn niềm say mê thị uy quyền lực và phán xét của đám đông; 3/ điều này không được ghi công khai trong Cát bụi chân ai, do đồng tính là thứ đáng xấu hổ thế nên nó có thể phương hại đến quyền lực việc Huy Cận sinh thời đã phản đối gay gắt Tô Hoài khi ông cho đăng dài kỳ hồi kýCát bụi chân ai trên báo Tiền Phong17. Nhưng không chỉ Huy Cận mà nhiều người cũng nghĩ hồi ký của Tô Hoài có phần bất nhẫn khi kể lại câu chuyện của Xuân Diệu. Bởi Xuân Diệu vốn đã được tôn vinh như một hình tượng điển phạm trong văn học Việt Nam với danh xưng “ông hoàng của thơ tình”. Người ta phản ứng với hồi ký của Tô Hoài có lẽ xuất phát từ tâm lý e sợ điển phạm lung lay, bởi một mặc định trong nhận thức rằng tình yêu, như là đối tượng của thơ tình, dứt khoát phải là tình yêu dị tính. Vì như thế, tình yêu ấy mới có sức phổ quát. Và ngay cả những phê bình biện hộ cho tình cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu cũng bị ám ảnh bởi tính phổ quát. Những cách đọc ấy vừa chỉ ra bằng chứng khó chối cãi được về sự hiên diện của những dục cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu, vừa khẳng định theo tinh thần đại khái rằng nếu thơ tình Xuân Diệu là “tình trai” thì tình trai cũng là tình yêu thôi, mà tình yêu đích thực đâu có phân biệt tình cảm dị giới hay đồng giới. Song liệu biện hộ như thế đã thỏa đáng? Cá nhân người viết bài này khi đọc Cát bụi chân ai của Tô Hoài không nghĩ tác giả bất nhẫn với người bạn văn đã quá cố, không thể nói lại được nữa. Câu chuyện về Xuân Diệu cho ta thấy nỗi khổ sở, cay đắng của con người một thời khi muốn sống cái phần cá nhân nhất, riêng tư nhất của mình. Sẽ có ý nghĩa hơn nếu như từ đây, ta có thể so sánh Xuân Diệu với các nhà thơ đồng tính trong các xã hội cộng sản trước đây để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa đồng tính và chính trị ở một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Văn học đồng tính Việt Nam đương đại – Văn học tự thú? Nhìn lại dòng mạch văn học đồng tính ở Việt Nam trong lịch sử, tự thú dường như là nội dung quan trọng nhất. Đến mức người ta có thể nghĩ văn học đồng tính ở Việt Nam là văn học tự thú. Nhất là khi quan sát văn học đồng tính Việt Nam đương đại. Điều đáng nói là tự thú trong văn học đồng tính Việt Nam đương đại diễn ra trong một bối cảnh đã cởi mở hơn nhiều. Trong bộ phim ca nhạc ăn khách Những nụ hôn rực rỡ 2010, ở cảnh kết, diễn viên Tô Lâm, một người đồng tính ngoài đời, đã có màn tự thú thật về giới tính trong một bộ phim hư cấu. Trên các chương trình thực tế được khán giả Việt Nam chú ý, người ta thường xuyên chứng kiến nhân vật tham gia giới thiệu mình như là người thuộc thế giới thứ ba một cách tự nhiên, thậm chí sự xuất hiện của họ còn là nhân tố tạo cho cái gọi là “thực tế” truyền hình có thêm “kịch tính” – điều mà khán giả thường chờ đợi. Truyền thông đại chúng vừa tạo ra không gian chính thống để người đồng tính công khai khẳng định giới tính của mình, không cần nép vào tôn giáo để hợp thức hóa giới tính đồng thời, khi biến người đồng tính thành hình ảnh, biên tập hình ảnh ấy theo những áp lực của kiểm duyệt và nhu cầu của thị hiếu đại chúng, truyền thông, đến lượt mình, lại tạo ra một sự trấn áp đối với người đồng tính bằng việc tạo ra những bản kẽm về họ. Nhưng ta sẽ nói đến điều này kỹ hơn ở phần dưới bài viết. Bóng – tự truyện đồng tính của Nguyễn Văn Dũng, do hai nhà báo Đoan Trang và Hoàng Nguyên chấp bút, xuất bản năm 2008 – là tác phẩm mở đầu cho thể loại tự thuật thú nhận công khai về giới tính trong văn học Việt Nam đương đại sau đó có thêm Không lạc loài của Phạm Thành Trung, Lê Anh Hoài chấp bút, Đời callboy của Nguyễn Ngọc Thạch,…. Cuốn sách xuất hiện khi hình ảnh người đồng tính không còn là một cái gì quá xa lạ trên truyền thông đại chúng, nhưng đồng thời hình ảnh ấy cũng thường được lặp lại theo những công thức nhất định, tạo thành những định kiến phổ biến. Trên sâu khấu hài kịch, sự gây cười bởi độ lệch tông được cường điệu trong phương thức biểu hành giới tính dẫn đến sự đóng đinh hình dung về người đồng tính gay tức là ẻo lả, ngoa ngoắt, điệu đà,… Ở điện ảnh và phim truyền hình, người đồng tính muốn được thừa nhận như một giá trị phải sở hữu những thứ quyền lực khác để có thể thao túng kẻ khác thường đó phải là nhân vật sống ở môi trường đô thị, có tiền, có quyền, có tài, có thân thể đẹp, thích gây chú ý,… Trên truyền thông báo chí, người đồng tính gắn liền với những gì thái quá. Chỉ cần đọc nhanh những mẩu tin về các vụ án liên quan đến người đồng tính, ta dễ nhận thấy một cấu trúc tu từ phổ biến, theo đó, đồng tính thường có những cảm xúc tâm lý thái quá, gắn liền những dục vọng mãnh liệt về nhục cảm và bởi thế, đồng tính thường dễ mù quáng, quá khích, dã man. Những bản án dành cho người đồng tính, do vậy, thường ở khung hình phạt rất nặng. Chỉ cần gõ hai từ khóa “đồng tính” và “tử hình” đi đôi với nhau lên Google, kết quả sẽ cho ta một con số đáng suy nghĩ. Phần lớn các vụ án này, theo tường thuật của báo chí, thường xuất phát từ những động cơ tiền bạc và tình dục quá khích, dẫn đến chỗ các án mạng được mô tả theo chiều hướng tăng cấp sự man rợ. Hiện tượng này cũng nên được xem xét như một nguyên nhân dẫn đến sự dai dẳng của tâm lýhomophobia trong xã hội Việt Nam đương đại. Giữa những diễn ngôn phổ biến như vậy về người đồng tính trong văn hóa đại chúng, một tự thuật như Bóng thực sự có ý nghĩa xã hội đáng ghi nhận. Mục đích của cuốn tự thuật, như Nguyễn Văn Dũng tâm sự, là muốn đem đến một nhận thức đúng hơn về người đồng tính đồng tính không phải là một tình trạng bệnh hoạn, không phải một sự lạc loài đáng xấu hổ và buộc phải che đậy cả đời. Một trong những nội dung quan trọng của cuốn sách là việc mô tả quá trình tự ý thức về giới tính của Dũng. Có lẽ đây chính là điều làm Dũng cảm thấy hơi tiếc vì anh không thể trực tiếp dùng lời văn để kể lại đời mình, đặc biệt là diễn biến tâm lý của chính anh. Nhưng câu chuyện của Dũng, ở chừng mực nào đó, có thể làm trực quan cho những luận điểm không dễ nắm bắt của thuyết biểu hành giới tính. Cái gọi là “đàn ông”, “nam tính” trên thực tế là một bảng phân vai gắn liền với những việc phải làm là đàn ông, anh phải đảm nhiệm vai của đứa con trai độc nhất trong nhà, phải có nghĩa vụ kết hôn, có con để nối dõi tông đường; khi đi học, để hòa nhập với đám con trai, anh phải biết chơi những trò được mặc định là dành cho con trai, làm những công việc mà thầy giáo bảo là “việc của đàn ông”; trong một xã hội mà vấn đề an ninh quốc phòng luôn được đề cao, đến mức quốc phòng còn trở thành môn học trong trường phổ thông, làm đàn ông nghĩa là còn phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đặc biệt, “đàn ông”, như một tính từ thể hiện đẳng cấp, phải được thể hiện qua khả năng chinh phục đàn bà. Chính ở câu chuyện về mối quan hệ giữa Dũng với hai nhân vật nữ tên Hoa và Hương trong cuốn sách, ta có thể thấy được tính chất bạo lực trong diễn ngôn hàng ngày về “đàn ông”, “nam tính”, trong đó, đàn bà được xem như một thứ “vật” mà đàn ông cần phải chiếm đoạt và phô trương để khẳng định đẳng cấp của mình, để được thừa nhận là đàn ông đích thực. Song bên cạnh đó, thì chính mối quan hệ dị giới này thực chất cũng chỉ là hình thức chuyển vị những dục cảm đồng giới, như Dũng thú nhận “Đêm đó, lần đầu tiên trong đời, tôi biết đến cơ thể phụ nữ. Tôi vẫn nhớ cảm giác của mình lúc đó cảm xúc không trọn vẹn, càng về sau tôi mới càng nhận ra rằng sự tò mò nhiều hơn sự ham muốn… Lần ấy đối với tôi thực chỉ là một cách để tôi sĩ diện đem “chiến công” về khoe với những thằng con trai khác, cũng là cách để tôi che giấu cảm giác thèm muốn nam giới của mình”; “Dù vậy, có vẫn hơn không, bởi thâm tâm tôi muốn sở hữu Hương để tự khẳng định mình trước lũ bạn. Như một cách tự khẳng định rằng dứt khoát tôi là một thằng đàn ông…”18 Trong một xã hội dường như sự thành thực, trước hết là thành thực với chính mình, dường như đang khan hiếm thì tự thú của Nguyễn Văn Dũng, hay bất cứ người đồng tính nào qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đều có ý nghĩa tích cực nó thể hiện sự can đảm của những người dám sống là chính mình. Tuy nhiên, tự thuật Bóng, thẳng thắn để nhận xét, vẫn không thoát khỏi hệ quy chiếu lấy đàn ông, lấy người dị giới làm trung tâm. Điểm nhìn của cuốn sách, ngay từ chương đầu tiên, đã xác định là điểm nhìn của nạn nhân. Sẽ là bất nhẫn nếu phê bình điều này vì đó là thực tế những gì Dũng và những người đồng tính nếm trải. Nhưng điều quan trọng là nhãn quan nạn nhân ấy mang một màu sắc định mệnh xuyên suốt cuốn tự thuật là ám ảnh của nhân vật tình trạng không có tương lai và sự bất hạnh mà nhân vật coi như số phận của mình cũng là bất hạnh được chiếu từ điểm nhìn của người dị giới, xem cuộc sống được coi là bình thường của người dị giới như là khuôn mẫu của hạnh phúc. Bản thân cuốn tự thuật cũng được kết cấu như một lộ trình mà nhân vật cùng những người đồng tính như anh cố gắng để được xã hội công nhận giá trị. Và giá trị đó là giá trị mà những người dị giới tạo ra “Là người đồng tính nhưng chúng cháu vẫn thực hiện đủ nghĩa vụ của công dân với đất nước. Bản thân cháu đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Rồi chúng cháu cũng vẫn phải làm những công việc nặng nhọc mà xã hội chỉ định cho nam giới…”19 Tự thú đồng tính của Nguyễn Văn Dũng, dù rất ý nghĩa và đáng trân trọng, vẫn là một tự thú nhiều mặc cảm. Và nhìn rộng ra, mặc cảm ấy là điều dễ bắt gặp, dễ phát hiện trong văn chương đồng tính Việt Nam. Dòng văn chương ấy cần thêm sự táo bạo để khiêu khích, để chất vấn các ý niệm bản chất luận về giới tính khiêu khích, chất vấn không phải nhằm đến sự độc tôn theo chiều hướng ngược lại mà để mở ra quan hệ mới, bình đẳng hơn, tôn trọng nhau hơn giữa các chủ thể trong xã hội. Văn học đồng tính ở Việt Nam – Hướng tới một dòng văn học thiểu số Từ chỗ phải kiếm tìm những hình thức ngụy trang để che giấu chình mình đến chỗ tự xác nhận giới tính của mình, chứng minh sự thiểu số của mình cũng bình thường như mọi sự bình thường khác trong đời sống, từ chỗ bị ấn định bởi sự mô tả của kẻ khác vốn nắm giữ quyền lực của bộ phận đa số đến chỗ nỗ lực tìm cách để biểu hiện chính mình, dù còn rất loay hoay, văn học đồng tính ở Việt Nam, nhìn trên bề mặt, đã tiến được một chặng đường đáng kể. Tuy chưa có điều kiện khảo sát kỹ nhưng chúng tôi cho rằng về số lượng, các tác phẩm văn học được xếp vào dòng “queer” hiện nay khá phong phú. Thậm chí đã bắt đầu có những tác giả thực sự bắt đầu đi sâu vào mảng đề tài đồng tính như Bùi Anh Tấn, Vũ Đình Giang,… Có những cuốn sách thật sự ăn khách, gây được sự chú ý của công chúng. Song văn học đồng tính cũng sẽ bế tắc, cạn kiệt nếu như nó chỉ đối xử với đề tài đồng tính như một đề tài ăn khách, chứa yếu tố gây tò mò đến mức thể hiện ngay điều này ở tên tác phẩm như Lạc giới, Điếm trai,… Văn học đồng tính sẽ bất nhẫn với chính đối tượng đặc thù của mình nếu như nó chỉ muốn kể những câu chuyện cảm thương hay bông lơn để chiều chuộng độc giả, trong đó có rất nhiều người chỉ muốn nhìn người đồng tính như những kẻ yếu đuối, cô độc, yếm thế hoặc như những kẻ thái quá, gây cười, gây lố. Văn học đồng tính ở Việt Nam hiện nay, bất chấp diện mạo có vẻ phong phú, lại dễ gây định kiến về tính chất “ghetto” của nó đó là dòng văn học của/về một cộng đồng thiểu số. Nhưng nhận xét trên dường như mâu thuẫn với chính cách đặt vấn đề ở phần này của bài viết. Ý niệm “thiểu số” ở đây được chúng tôi tiếp thu từ Gilles Deleuze và Félix Guattari trong công trình nghiên cứu của hai ông về văn chương của Franz Kafka Kafka – vì một nền văn học thiểu số. Theo đó, văn chương thiểu số không đồng nhất với văn chương của một cộng đồng thiểu số hay được viết bằng một thứ ngôn ngữ thiểu số. Đó là thứ văn chương nằm ngoài dòng chính, nó luôn ở trong quá trình trở thành khác, nó chối từ sự đóng đinh vào những quy phạm mặc định, những định nghĩa hoàn tất, nó làm lung lay độ rắn chắc của những đối lập nhị phân trong ý thức văn hóa, nó làm phát huy sự phong phú, dị biệt vốn có trong ngôn ngữ. Văn chương thiểu số, như thế, rõ ràng là một thứ văn chương “queer”, nếu ta nhớ rằng từ “queer” trong tiếng Anh vốn có nghĩa gốc là sự lệch chuẩn, lệch pha so với những chuẩn mực được kỳ vọng, mong đợi. Thứ văn chương thiểu số ấy, theo Deleuze và Guattari, là thứ văn chương của tương lai. Viết, với Gilles Deleuze, là sự trở thành khác becoming other, là sự khai thông những khả thể khác của sự sống20. Khi viết, người ta trở thành đàn ông, đàn bà nhưng không phải như là những hình mẫu đã mặc định, mà là những đàn-ông-khác, đàn-bà-khác. Suy diễn mệnh đề này của Deleuze, quá trình viết cũng rất có thể là quá trình trở thành “queer” của chủ thể viết. “Queer”, lúc này không còn là một cái gì nhược tiểu, mặc cảm nữa quá trình “queer” hóa giải cấu trúc độ rắn, tính xác định của những ý niệm sẵn có về giới, giải phóng áp lực về giới lên sự viết, lên ngôn ngữ, và rộng hơn, là giải phóng áp lực của các chuẩn mực, các quy phạm, cho phép con người thể nghiệm những gì bên ngoài khuôn khổ thông thường. “Queer” hóa sự viết cũng chính là cách để hình thành chủ thể tự do, những cách biểu đạt tự do. Trở lại với trường hợp văn chương của các “nhà nho lại cái” thế kỷ XVIII. Khi nhập vào vai nữ để giãi bày, tự sự nỗi lòng của mình, họ đã thể nghiệm việc trở thành phụ nữ. Nhưng không phải là phụ nữ theo ý niệm chính thống của Nho giáo mà là một mẫu phụ nữ khác táo bạo, quyết liệt, cá nhân. Điều này cũng gắn với việc họ tìm kiếm những khả năng biểu đạt mới cho thơ Nôm, biến thơ Nôm thành không gian cho phép cất lời những điều mà thơ chữ Hán vốn không sẵn chữ để biểu đạt, biến thơ Nôm thành một thứ “văn học thiểu số” theo đúng nghĩa mà Deleuze giới thuyết. Thơ Nôm bị “queer” hóa, nói theo chữ chúng ta đang dùng, cũng có nghĩa là nó trở nên khoáng đạt hơn, gợi cảm hơn, sắc dục hơn. Và khi các nhà nho “queer” hóa chính họ thì đồng thời sáng tạo của họ cũng tạo ra những kẽ hở để giải tỏa áp lực, định kiến đối với chính bản thân phụ nữ. Xuân Diệu sau này cũng đã “queer” hóa tiếng Việt, tạo ra một lớp ngôn ngữ uyển chuyển, vừa giúp ông bộc lộ dục cảm đồng giới, vừa khéo léo che đậy chứ không vùi dập chúng, nhất là ở thời kỳ nói như Chế Lan Viên Khi đứng riêng tư ta thấy mình xấu hổ. Văn học đồng tính ở Việt Nam đến lúc này thực sự chúng tôi muốn gọi nó là văn học “queer” hơn có lẽ cũng đến lúc phải tự giải phóng những giới hạn của mình. “Queer” không chỉ là một đề tài, một đối tượng ngoại biên cần được nhận thức, mô tả – điều này, tất nhiên, vẫn rất cần thiết trong bối cảnh Việt Nam. Nhưng hoàn toàn có thể đặt vấn đề khác “queer” như một cái nhìn, một lập trường, một thế giới quan không ngừng “tra vấn bất cứ những cái bình thường hay chuẩn mực được mặc định, vốn dĩ không có quyền lực nội tại nào”21. Một thế giới quan như thế thực chất có không ít ưu thế, nó cho phép con người có nhiều lựa chọn hơn. Điều đó cũng có nghĩa là ta tự trao cho ta nhiều tự do hơn. Để sống. Và để sáng tạo. Cũng đã có thể nhận ra một số tác phẩm thể nghiệm một tinh thần “queer” như thế trong văn học Việt Nam đương đại, dẫu chưa thật nhiều. Chúng tôi nghĩ đến trường hợp của Nguyễn Thúy Hằng. Không cần dùng văn chương để ngụy trang dục cảm, cũng không phải viết để tự thú, biện hộ cho mình, Hằng viết bằng một thứ ngôn ngữ có xu hướng trở nên trung tính hóa, trở nên phi trữ tình, phi xác định về thể loại một thứ văn chương hóa lỏng. Ở đó, Hằng, nhân vật của Hằng lãnh đạm và tự tại quan sát mình, quan sát thế giới để thấy tất cả không là một cái gì định hình, rắn chắc. Tất cả đều chỉ là một thứ “bột hư ảo”. Rất đỗi mong manh, rất dễ tan rã nằm giữa một bầy xin lỗi và tái nhợt nằm giữa loại áo choàng phụ nữ cái giường đơn tôi và người phụ nữ ấy bay lên không trung. chạm vào trần nhà, tôi mắc kẹt trên ấy – tôi bị đuổi khỏi chỗ tôi nằm. tôi trở thành trần nhà. người phụ nữ là loài thạch sùng bò lạnh ngắt trên da họ bám vào tôi, ngủ mơ, dai, thật dai… dưới lá ẩm phủ phục chúng tôi nằm hôn nhau lâu rất lâu thân thể lúc ấy mối mọt lúc ấy mủ mục lúc ấy cơn dông từ xa đột ngột trở xám rừng rậm già đi cả rừng rậm mọc thật dày cánh tay khẳng khiu rồi đây chúng tôi chỉ là nhúm bột hư ảo mà thôi22 Không khắc khoải yếm thế về tương lai, Nguyễn Thúy Hằng chỉ lặng nhìn từng khoảnh hiện tại li ti, vụn vỡ, mong manh. Tác phẩm của Hằng nghiệm sinh cái mong manh đó với một tâm thế hiện sinh nhẹ nhõm. Cũng như Xuân Diệu trước kia đã nhìn thấy ở mối tình trai giữa Rimbaud và Verlaine một thái độ hiện sinh bất cần “Không cần mặc cả họ yêu nhau”. Và tinh thần hiện sinh ấy cũng là điều toát lên từ các diễn ngôn lý thuyết đồng tính. Khi Jeffrey Nealon và Susan Searls Giroux khái quát về lý thuyết “queer” bằng luận điểm “Sự thật, thậm chí ngay cả sự thật về giới tính, phụ thuộc vào các hành động, hành vi hơn là ngược lại. Bạn là ai là hệ quả của việc bạn làm gì”23, ta không khỏi nhớ đến mệnh đề nổi tiếng của Jean-Paul Sartre rằng không có bản chất nào có trước hiện hữu. Ý thức hiện sinh ấy, thiết nghĩ, rất cần cho sự giải phóng của văn học đồng tính ở Việt Nam khỏi chính những giới hạn mà nó đang tạo ra và quẩn quanh trong đó. __________________ 1 Cristopher Isherwood Người cô độc, Trần Nguyên dịch, Youth Book & NXB Hội Nhà văn, H., 2012, 2 Tony Purvis “Sexualities”, in Patricia Waugh ed. Literary Theory and Criticism An Oxford Guide, Oxford University Press, 2006, 3 Tony Purvis “Sexualities”, Sđd, 4 Jefrey Nealon, Susan Searls Giroux “Queer”, in The Theory Toolbox Critical Concepts for the Humanities, Arts & Social Sciences, Rowman & Littlefield Publishers, 2003, 5 Jeffrey Nealon, Susan Searls Giroux “Queer”, 6 Tạ Chí Đại Trường Sử Việt đọc vài quyển, Nxb. Văn mới, California, Chúng tôi trích theo bản PDF tại địa chỉ 7 Tạ Chí Đại Trường Sử Việt đọc vài quyển, Sđd, 8 Nguyễn Thanh Tùng, “Hiện tượng biến đổi giới trong văn học trung đại – Một vài nhận xét”, Nguồn 9 Ngô Sĩ Liên Đại Việt sử ký toàn thư, Đào Duy Anh dịch, Trung tâm Văn hóa – Ngôn ngữ Đông Tây & NXB Hồng Bàng, 2012, Có lẽ sự lệch chuẩn mang màu sắc “queer” của hình tượng Bà Triệu qua cách tái hiện của sáchGiao Chỉ ký đã hình thành nên định kiến của các sử gia sau này khi bình luận về nhân vật này. Chỉ cần so sánh với cách sử gia phong kiến đánh giá về Bà Trưng, người được xem là dấy quân khởi nghĩa chống lại nhà Hán để vừa trả nợ nước vừa báo thù nhà, ta có thể thấy rõ định kiến đó. Ngô Thì Sĩ trong sách Đại Việt sử ký tục biên đã bình luận “Chỉ vì chồng mà căm phẫn, em vì chị mà cố gắng, tiết phụ nghĩa nữ ở cả trong một nhà, đó mới là lạ… Từ khi bà Nữ Oa luyện đá vá trời về sau, chỉ có chị em nhà họ Trưng mà thôi. Còn tẹp nhẹp như Triệu Ẩu, Trần Thạc Trinh thì kể làm gì đời Đường Cao Tông, con gái châu mục là Trần Thạc Trinh làm phản, tự xưng là Văn Giai hoàng đế” Ngô Thì Sĩ Đại Việt sử ký tục biên, Trung tâm Văn hóa – Ngôn ngữ Đông Tây & NXB Hồng Bàng, 2012, 10 Lê Quý Đôn Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, NXB Trẻ & NXB Hồng Bàng, 2012, 11 Tạ Chí Đại Trường Sử Việt đọc vài quyển, Sđd, 12 Xin xem Nguyễn Quốc Vinh “Những nhục thể biến dị và các động thái chuyển vị của dục cảm đồng tính trong văn chương Việt Nam từ và về thời Pháp thuộc 1858-1954, tại địa chỉ Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, trong Bút pháp của ham muốn, NXB Tri thức, H., 2009. 13 Xem thêmNguyễn Quốc Vinh “Những nhục thể biến dị và các động thái chuyển vị…”, Bđd; Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, Sđd. 14 Xuân Diệu Tuyển tập Tập II, NXB Văn học, 1987, 15 Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, Sđd, 231, 249. 16 Tô Hoài Cát bụi chân ai, NXB Hội Nhà văn, H., 2000. 17 Dẫn theo Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, Sđd, 18 Đoan Trang, Hoàng Nguyên Bóng – tự truyện của một người đồng tính, NXB Văn học, 2008 Tuy nội dung của nó là tự truyện của Nguyễn Văn Dũng nhưng bìa sách lại ghi tên tác giả là Đoan Trang và Hoàng Nguyên. 19 Đoan Trang, Hoàng Nguyên Bóng…, Sđd. 20 Gilles Deleuze, “Literature and Life”, bản dịch tiếng Anh của Daniel W. Smith và Michael A. Greco, in trongCritical Inquiry, Winter, 1997, trang 225-230. Có thể đọc bản dịch sang tiếng Việt của Hải Ngọc tại địa chỉ 21 Claire Colebrook “On the Very Possibility of Queer Theory”, in Chrysanthi Nigianni và Merl Storr ed. Deleuze and Queer Theory, Edinburg University Press, 2009, 22 Nguyễn Thúy Hằng Họ – Bột hư ảo, Nhã Nam & NXB Văn học, 2012. 23 Jefrey Nealon, Susan Searls Giroux “Queer”, Sđd, Nguồn Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2014 Như đã đưa tin, hôm thứ Tư 21/8, nam diễn viên Wentworth Miller của bộ phim truyền hình nổi tiếng Prison Break Vượt ngục đã công khai thừa nhận anh là người đồng tính trong một lá thư gửi đến những nhà tổ chức Liên hoan phim Quốc tế St. Petersburg ở Nga. Nam diễn viên Wentworth dung bức thư cho biết, ngôi sao 41 tuổi đã từ chối tham dự sự kiện này bởi nó mang tính kỳ thị người đồng tính. Vậy người đồng tính là ai và nguyên nhân của thiên hướng tình dục đồng tính là gì... Hãy cùng tìm hiểu những điều này qua nghiên cứu dưới đây. Đồng tính là gì?Trước năm 1994 trên thế giới người ta vẫn quan niệm rằng, đồng tính là một căn bệnh thuộc nhóm bệnh lệch lạc giới tính và có liên quan đến các biểu hiện suy đồi đạo đức. Thậm chí một số quốc gia còn liệt đồng tính là một bệnh thuộc bệnh tâm thần và cần theo dõi sát sao. Từ sau năm 1994, các nhà khoa học đã nhận ra sai lầm của mình nên từ đó đồng tính luyến ái không bị coi là một căn bệnh nữa. Họ cho rằng đây là một hiện tượng, một thiên hướng tình dục bình 2 dạng đồng tính chính, đó là đồng tính nam Gay và đồng tính nữ Lesbian. Đây không phải là một căn bệnh mà là một trong những thiên hướng tình dục, tức là trung tâm não của những người đồng tính chỉ nhận diện đối tượng tình dục là người cùng phái. Vậy thiên hướng tình dục này xuất hiện là do rối loạn nhiễm sắc thể, do gene hay một lý do nào khác?Những giả thuyết về đồng tính nam... Có rất nhiều cách giải thích mà những người đồng tính đưa ra với hy vọng hiểu được vấn đề của chính mình. Ở thế kỉ XIX, một số người đồng tính nam tự cho mình là có một phần phụ nữ bên trong, phần phụ nữ này luôn tìm cách để bộc lộ ra ngoài khiến họ “tự nhiên trở thành người đồng tính”.Những luận thuyết tiến hóa trước đây cho rằng, đồng tính là một đặc tính không thể tồn tại lâu và ảnh hưởng tới tiến trình duy trì nòi giống. Giả thuyết chỉ ra rằng, sự mất cân bằng về kích thích tố là nguyên nhân xuất hiện những người đồng tính nam, tức là nếu kích thích tố nữ trội hơn trong người nam thì người đó sẽ có những đặc tính như yếu đuối, mềm mại của phụ nữ. Nhưng trên thực tế, có những người đàn ông gân guốc, lực lưỡng và trông hết sức nam tính lại có thể là những người đồng tính luyến ái cuồng nhiệt nhất. Những giả thuyết về đồng tính là do “tự nhiên” hay do kích thích tố vẫn còn nhiều điểm chưa thỏa đáng. Năm 1993, nhà nghiên cứu Hammer Mỹ đã tìm ra một đoạn nằm trên nhiễm sắc thể X có liên quan đến xu hướng tình dục đồng giới. Ông và cộng sự đưa ra giả thuyết xu hướng tình dục đồng giới được di truyền từ mẹ. Giả thuyết này một lần nữa được khẳng định lại bởi nghiên cứu của Camperio Ciani Ý. Khi tiến hành nghiên cứu với 161 người phụ nữ có họ hàng với những người đồng tính và không đồng tính, Camperio phát hiện ra sự tương đồng về gene giữa những người đàn ông đồng tính với mẹ và dì của họ. Ông nhận thấy rằng, những người họ hàng của người đồng tính nam thường sinh nhiều con hơn không phải vì họ sống buông thả hơn mà là do họ có những đặc điểm hấp dẫn phái mạnh một cách rõ rệt giả thuyết này, một số gene được thừa hưởng từ người mẹ khiến người đàn ông sinh ra sẽ trở thành người đồng tính. Loại gene này nằm ở nhiễm sắc thể X của người phụ nữ và tồn tại qua nhiều thế hệ. Chị em gái của họ nếu mang gene này từ mẹ có thể di truyền cho các thế hệ kế tiếp. Đôi khi gene đồng tính không được truyền từ mẹ sang con nhưng nó có thể lặp lại ở những thế hệ sau. Nghiên cứu này củng cố thêm giả thuyết về “lựa chọn để trở thành người đồng tính”, vốn do gene di truyền gây ra đồng tính quyết định.... và đồng tính luyến ái nữTrong khi các nhà khoa học có một giả thuyết về đồng tính nam là do di truyền lan truyền từ nhiều thế hệ thì ngược lại, không ai có một lời giải thích khả thi và xác đáng về việc các gene thúc đẩy đồng tính nữ cũng là do di một nghiên cứu về các cặp song sinh được tiến hành tại Vương quốc Anh vào năm 2011, đồng tính nữ chỉ có 25% là do di truyền. Nhà tâm lý học - Lisa Diamond thuộc ĐH Utah Mỹ đã chỉ ra rằng, định hướng tình dục của phụ nữ có thể định hình bởi những thay đổi về môi trường sống, ảnh hưởng văn hóa tích cực hay tiêu cực về cảm giác tình yêu mà ít chịu ảnh hưởng từ gene di đến bây giờ vẫn chưa có một lời lý giải chắc chắn nào về nguyên nhân gây nên xu hướng tình dục đồng tính ở phụ nữ. Rất nhiều phụ nữ tồn tại ở hai thái cực đồng tính và không đồng tính nhưng bản thân họ cũng đã nỗ lực sống tốt, mong muốn được là chính mình, không bị kỳ thị và không bị hủy hoại bởi các định kiến xã hội. Chính vì vậy, xã hội văn minh cần có cái nhìn đúng hơn về những người đồng tính nữ.* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn Livescience, Wikipedia... Was this document helpful?Leave a comment or say thanksCourse Kĩ năng mềm195 DocumentsStudents shared 195 documents in this courseTRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANGKHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VÀ TRUYỀN THÔNGKỸ NĂNG MỀM TIỂU LUẬN NHÓM CUỐI KÌ IIDỰ ÁN NGHIÊN CỨU VỀ CỘNG ĐỒNG LGBTQ+ TRÊNTOÀN THẾ GIỚI Giảng viên hướng dẫn Thân Thế Tuyên Lớp 212_71SSK020003_52 Sinh viên thực hiện Nhóm Chí Minh,ngày 02 tháng 04 năm 2022BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 04STT Họ và tên MSSV1 Nguyễn Dương Đình Thế 21732010803942 Vũ Ngọc Phương Nhi 21738010700803 Nguyễn Hoàng Thiên Kim 21732010803604 Trần Huỳnh Hồng Tiên 21732010812565 Hoàng Thanh Hào 21732010803566 Nguyễn Thị Anh Minh 21732010817947 Lê Hoàng Mỹ Hà 21732010800118 Nguyễn Đinh Ngọc Hân 2173201080634 Bạn đang tìm kiếm một đề tài ấn tượng cho bài nghiên cứu khoa học? Đây sẽ là một kho tàng tổng hợp hơn 100 đề tài nghiên cứu khoa học hay và ấn tượng nhất giúp bạn giải quyết những khó khăn khi đang loay hoay khi không biết chọn cho mình một đề tài thích hợp. Theo dõi ngay và lựa chọn thật thông thái nhé! 1. Đề tài nghiên cứu khoa học là gì? 2. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu khoa học 3. Cách đặt tên đề tài nghiên cứu khoa học 6 nguyên tắc khi đặt 3 tính chất đề tài cần chứa 3 đặc điểm cần tránh khi đặt tên đề tài nghiên cứu khoa học 4. Cách lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học 5. 200+ tên đề tài nghiên cứu khoa học ẤN TƯỢNG NHẤT 10+ mẫu đề tài nghiên cứu khoa học hay nhất 2022 10+ mẫu đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên 10+ đề tài nghiên cứu khoa học hay 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về sinh viên 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về môi trường 10+ đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ thông tin 10+ đề tài nghiên cứu khoa học kỹ thuật 10+ gợi ý đề tài nghiên cứu khoa học ngành luật 10+ đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về răng miệng 10+ đề tài nghiên cứu khoa học kỹ thuật thcs 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về thời trang 10+ đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ 10+ đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường 10+ tên đề tài nghiên cứu khoa học đơn giản Các đề tài nghiên cứu khoa học về tài chính 10+ đề tài môn phương pháp nghiên cứu khoa học Các đề tài nghiên cứu khoa học về ngân hàng 10+ đề án nghiên cứu khoa học Các đề tài nghiên cứu khoa học phổ biến khác 1. Đề tài nghiên cứu khoa học là gì? Đề tài nghiên cứu khoa học là gì Nghiên cứu khoa học là quá trình điều tra, nghiên cứu, tìm hiểu và quan sát một sự vật hoặc hiện tượng nào đó được khám phá mới giúp con người nâng cao sự hiểu biết về sự vật và hiện tượng đó. Vậy đề tài nghiên cứu khoa học là gì? Đề tài nghiên cứu khoa học là một hay nhiều vấn đề khoa học đang nghiên cứu và chưa có sự hiểu biết đầy đủ, tường tận hoặc hoàn toàn chưa biết những đã từng có những tiền đề và khả năng được giải đáp thông qua nghiên cứu của con người. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu khoa học tạo định hướng để trả lời những câu hỏi mà con người vẫn luôn thắc mắc về nó. Đề tài cần phải đảm bảo được 3 yếu tố Nghiên cứu về cái gì? Nghiên cứu có tác dụng gì? Tiến hành nghiên cứu như thế nào? Nếu bạn khó khăn trong việc tìm tài liệu, hãy xem ngay bài viết Cách tìm tài liệu nghiên cứu khoa học 2. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu khoa học Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu khoa học Đề tài nghiên cứu khoa học cần phải có nội dung mang tính thiết thực, cập nhật và có những yếu tố mới mẻ hướng đến những lĩnh vực hoạt động phức tạp, đa dạng của khoa học và đời sống. Do đó, tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu khoa học là được đánh giá cao nhất. Kết quả từ nghiên cứu cần giải quyết được một thắc mắc chưa có lời giải đáp cho vấn đề nào đó về mặt lý thuyết hoặc gắn với thực tế đời sống. 3. Cách đặt tên đề tài nghiên cứu khoa học Tên đề tài nghiên cứu khoa học là một nội dung mang tính tổng quát cao, là lời văn ngắn gọn, súc tích nhưng diễn đạt được kết quả dự kiến của một quá trình nghiên cứu. Tên đề tài đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong bài nghiên cứu khoa học. Tên đề tài giúp người đọc hình dung một cách nhanh chóng nhưng lại đầy đủ nhất về nội dung của toàn bài nghiên cứu. 6 nguyên tắc khi đặt Để đặt tên đề tài nghiên cứu một cách hiệu quả thì bạn không thể bỏ qua 6 lưu ý sau Cô đọng nhất nội dung nghiên cứu, mang ý nghĩa đơn chiết và không thể bị hiểu thành hai hoặc nhiều nghĩa khác nhau. Mỗi nghiên cứu khoa học thì đều mang tính chất riêng biệt và độc nhất nên khi đặt đầu đề cần biểu hiện rõ bản chất của sự việc. Trong trường hợp muốn cụ thể đầu đề và muốn đưa ra những thông tin quan trọng trong nghiên cứu thì có thể kèm theo chú thích ngắn khoảng từ 4 – 6 chữ. Đôi khi, các đầu đề cũng cung cấp thông tin về đặc điểm của phương pháp thì bạn cũng có thể đặt trong dấu ngoặc đơn như một ghi chú. Đề tài nghiên cứu yêu cầu cao về độ chính xác nên bạn nên đưa thêm các cụm từ “nghiên cứu” hay “phương pháp”. Sử dụng những cụm từ mang tính khoa học nhất để thể hiện trình độ chuyên sâu và ý thức sâu sắc đối với các vấn đề khoa học. 3 tính chất đề tài cần chứa Tính thực tiễn gắn với thực tế và đem lại lợi ích cho hành động cụ thể. Tính xác định xác định được ngành, mức độ và phạm vi đề tài hướng đến. Tính tiên tiến đề tài khoa học nhất định phải là những điều mới mẻ, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học, xã hội và công nghệ. 3 đặc điểm cần tránh khi đặt tên đề tài nghiên cứu khoa học Không đặt bất cứ một công thức, một con số mang tính chất tương đối vào tên đề tài. Không sử dụng các đại từ bất định như “một số”, “một vài”, … Không sử dụng các từ ngữ mang tính chất thuần túy như “Bàn về vấn đề”; “Phân tích và khái quát”; “Tổng hợp”; Các giả thuyết nghiên cứu đôi khi cũng là những ý tưởng sơ khai cho những đề tài nghiên cứu khoa học chính thức. Tìm hiểu sâu hơn về các giả thuyết nghiên cứu từ Luanvan24 chắc chắn sẽ giúp bạn định hình đề tài khoa học của mình dễ dàng hơn. 4. Cách lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học Cách lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học Nhiều người thường đưa ra một lựa chọn nhanh chóng vì yêu thích, thích chợt nghĩ ra trong một thoáng chốc hoặc được gọi ý bởi một ai đó. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học là một dạng bài khá khó đề tìm kiếm và trình bày bởi nó yêu cầu rất cao về độ chính xác trong quá trình thực hiện. Lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học của bạn nếu đáp ứng đủ 7 yêu cầu dưới đây Đề tài liên quan đến mối quan tâm của bạn. Bạn đã có một cơ sở nhất định về đề tài đó. Đề tài là thế mạnh, nằm trong lĩnh vực và vấn đề của bạn. Dựa trên nhu cầu thực tiễn. Nhận được sự hướng dẫn từ người có trình độ và khả năng. Đảm bảo thu thập đủ tư liệu, tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài. Bạn có đủ các phương tiện, điều kiện về máy móc, thiết bị, kinh tế,… để đáp ứng cho quá trình nghiên cứu. 5. 200+ tên đề tài nghiên cứu khoa học ẤN TƯỢNG NHẤT Bạn đang loay hoay tìm kiếm cho mình một đề tài nghiên cứu khoa học nhưng lại chưa biết bắt đầu từ đâu. Hơn 100 mẫu đề tài nghiên cứu khoa học hay cho bạn thoải mái trong việc tham khảo, dễ tạo ra những ý tưởng mới và có thể trực tiếp lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học dưới đây Ngoài những tên đề tài nghiên cứu khoa học ở bên dưới bạn đọc có thể tham khảo thêm Kho mẫu đề tài khác ở bên dưới Đề tài nghiên cứu khoa học về mạng xã hội Đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng Đề tài nghiên cứu khoa học điều dưỡng Đề cương nghiên cứu khoa học điều dưỡng Đề tài nghiên cứu khoa học bệnh tiểu đường Đề cương nghiên cứu khoa học về ô nhiễm môi trường Các đề tài nghiên cứu khoa học về xã hội Đề tài nghiên cứu khoa học mầm non Đề tài nghiên cứu khoa học y tế công cộng Đề tài nghiên cứu khoa học về du lịch Đề tài nghiên cứu khoa học về kinh tế Đề tài nghiên cứu khoa học quản trị kinh doanh Đề tài nghiên cứu khoa học y học Đề tài nghiên cứu khoa học về kế toán 100+ tên đề tài nghiên cứu khoa học ẤN TƯỢNG NHẤT 10+ mẫu đề tài nghiên cứu khoa học hay nhất 2022 Dựa trên nền tảng Blockchain, AI ứng dụng vào xây dựng hệ thống quản lý bệnh án điện tử. Một số định hướng mở rộng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam nhằm cung ứng vốn cho doanh nghiệp giai đoạn kinh tế mới. Yếu tố tác động đến nhu cầu của người cao tuổi đối với dịch vụ y tế. Đánh giá tác động của biến động tỷ giá hối đoái tới chỉ số giá nhập khẩu. Đánh giá tác động của dịch bệnh Covid-19 đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Thực tiễn thực thi chiến lược sản xuất hướng vào xuất khẩu tại một số quốc gia. Nghiên cứu về sự tiến hóa của Virus trong tương lai. Các thành phần tạo nên giá trị thương hiệu của một công ty tại Việt Nam. Phân tích tác động của nhận thức đến cách ứng xử về hành vi bạo lực gia đình. Vai trò của liên kết chuỗi cung ứng bằng công nghệ thông tin và chia sẻ thông tin trong quản trị chuỗi cung ứng. 10+ mẫu đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên Sinh viên là những người đang thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học nhiều nhất hiện nay. Dưới đây là 10 đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên mà bạn nên tham khảo 10+ mẫu đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên Nghiên cứu về ý thức, thái độ của người dân Việt Nam trong việc phòng chống dịch Covid19 Các yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong mối quan hệ gia đình. Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Sự ảnh hưởng của mua hàng trực tuyến tới ý định mua sản phẩm của khách hàng hiện nay. Nghiên cứu về nhận thức của học sinh, sinh viên hiện nay đối với việc hoàn thành nghĩa vụ học tập. Nhận thức, thái độ, hành vi của giới trẻ đối với người thuộc cộng đồng LGBT. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập các môn học đại cương của sinh viên năm nhất, năm hai trường Đại học kinh tế quốc dân. Nghiên cứu về nhận thức về bảo vệ chủ quyền biển đảo của giới trẻ hiện nay. Tác động của mạng xã hội Facebook đến nhận thức và hành vi của giới trẻ hiện nay. Tác động của stress đến quyết định hành vi của giới trẻ. Giáo dục chưa bao giờ là một đề tài hết được quan tâm bởi một hệ giáo dục tốt sẽ tạo ra những con người tốt mang kiến thức giúp ích cho đời sống và xã hội. Xem nhiều hơn các đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục từ Luanvan24 để mở rộng sự lựa chọn cho mình bạn nhé! 10+ đề tài nghiên cứu khoa học hay Đề tài nghiên cứu khoa học hay Vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình ngày nay Sự phân biệt chủng tộc ở Châu Á Sự phát triển của năng lượng xanh Sự xói mòn của bãi biển Phá rừng vài cách trả lại đại dương xanh Biến đổi khí hậu và vai trò của con người trong đó Tác động của con người lên Trái Đất Cờ bạc online Các sản phẩm dùng một lần có nên bị cấm hoặc hạn chế? Làm thế nào để giao tiếp với bạn bè, gia đình, đồng nghiệp và người lạ tốt hơn? 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về sinh viên Phương thức đào tạo hệ chính quy theo hướng kết hợp giữa lý luận và thực tiễn Vấn đề đạo đức sinh viên trong môi trường giáo dục đại học Động cơ học tập của sinh viên năm nhất trường Đại học…. Vấn đề làm việc nhóm của sinh viên khoa Luật trường… Hoạt động tự học của sinh viên khoa quốc tế học trường đại học ….. Xác định các nhân tố dẫn đến tình trạng học kém của sinh viên trường đại học… Tổ chức trò chơi học tập nhằm hình thành những biểu tượng về hình khối cho trẻ 5 – 6 tuổi Vấn đề vệ sinh an toàn trong trà sữa quanh trường học Một số khó khăn của giáo viên khi dạy dân ca cho trẻ ở trường mầm non hiện nay 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về môi trường 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về môi trường Ứng dụng công nghệ màng trong nghiên cứu xử lý nước cấp cho vùng lũ lụt. Nghiên cứu nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ứng dụng công nghệ màng trong nghiên cứu xử lý nước cấp sinh hoạt cho vùng cao. Ứng dụng công nghệ không đốt trong xử lý chất thải rắn y tế lây nhiễm Nghiên cứu xây dựng, cập nhật kế hoạch hành động quản lý phát thải gây hiệu ứng nhà kính. Ứng dụng mô hình bãi lọc trồng cây trong nghiên cứu xử lý nước thải sinh hoạt. Nghiên cứu xử lý nước uống ở vùng lũ lụt và nhiễm mặn bằng thiết kế màng lọc thẩm thấu thuận Nghiên cứu ứng dụng rác thải sinh hoạt sản xuất chế phẩm xử lý mùi hôi. Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện kỹ thuật xử lý nước thải ô nhiễm hữu cơ. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ RP công suất 2m3/h trong thiết kế hệ thống xử lý nước tinh khiết từ nguồn nước cấp thủy cục. 10+ đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ thông tin Trong thời đại thì công nghệ thông tin là chìa khóa để tạo nên sự bùng nổ. Dưới đây là một số đề tài nghiên cứu khoa học ấn tượng trong ngành IT để cho bạn tham khảo Ứng dụng … điều khiển giám sát mô hình ổn định mức dung dịch theo thuật toán … Ứng dụng phần mềm … lập trình code cho … trong hệ thống phân loại sản phẩm theo cân nặng Thiết kế, xây dựng rơ le kỹ thuật số bảo vệ điện áp giảm thấp có kết nối với máy tính PC phục vụ công tác giảng dạy và học tập. Xây dựng hệ thống gợi ý sản phẩm trong bán hàng trực tuyến sử dụng giải thuật lọc cộng tác. Nghiên cứu các kỹ thuật … và … cho hệ thống viễn thông. Nghiên cứu các giao thức định tuyến … và … trong dịch vụ truyền hình qua Internet IPTV. Xây dựng mô hình toán học và thiết kế bộ điều khiển cho các bộ vi kích hoạt micro actuators. Nghiên cứu phương pháp điều khiển thiết bị trên nền tảng Android sử dụng chuẩn truyền thông Bluetooth. Thiết kế hệ thống điều khiển và giám sát nhiệt độ ứng dụng bộ điều chỉnh … của …. Xây dựng hệ thống định vị online cho nhóm các đối tượng di động. Thiết kế phần mềm điểm danh sinh viên tự động theo thời khóa biểu sử dụng nhận diện khuôn mặt. Nghiên cứu xây dựng phần mềm trợ lý ảo. 10+ đề tài nghiên cứu khoa học kỹ thuật Ứng dụng … điều khiển thiết bị điện dân dụng từ xa. Thiết kế hệ thống điều khiển tiết kiệm năng lượng chiếu sáng đèn đường cho …. Xây dựng các giải pháp chiếu sáng hiệu quả cho hệ thống chiếu sáng trong nhà. Ứng dụng … xây dựng mô hình tự động đóng nguồn dự phòng cho trạm biến áp. Thiết kế công tơ điện tử đọc số từ xa sử dụng … đọc thông số qua tin nhắn điện thoại. Nghiên cứu thiết kế mạch tạo xung số điều khiển bộ biến đổi xoay chiều. Nghiên cứu, ứng dụng … trong mô hình hệ thống điều khiển quá trình nhà máy nhiệt điện. Nghiên cứu bộ biến đổi năng lượng điện một chiều tăng áp … sử dụng trong … Nghiên cứu sự ảnh hưởng của từng điều kiện vận hành … và đề xuất giải pháp … trong … Ứng dụng đồ họa 3D vào việc xây dựng phần mềm hỗ trợ học từ vựng cho trẻ. Xã hội ngày càng phát triển và con người yêu cầu được chăm sóc nhiều hơn và ngành điều dưỡng sẽ hỗ trợ rất nhiều trong cải thiện chất lượng đời sống. Tìm hiểu thêm về đề cương nghiên cứu khoa học điều dưỡng từ Luanvan24 để mở rộng sự lựa chọn đề tài trong ngành này và cách thực hiện ngay. 10+ gợi ý đề tài nghiên cứu khoa học ngành luật 10+ gợi ý đề tài nghiên cứu khoa học ngành luật Dưới đây là 10 ví dụ đề tài nghiên cứu khoa học ngành luật ấn tượng nhất mà bạn không nên bỏ qua Công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước – Thực tiễn thi hành trên địa bàn huyện … tỉnh… Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường trên địa bàn huyện … thực trạng và phương hướng hoàn thiện. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện … Thực trạng và kiến nghị. Nâng cao chất lượng hoạt động xét phương thức xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa … Hệ thống bổ trợ tư pháp trong đảm bảo thực hiện các quyền dân sự ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng về công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật của đội ngũ cán bộ tư pháp xã đối với cộng đồng trên địa bàn xã … Huyện …tỉnh Nghệ An trong giai đoạn vừa qua. Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội ở trên địa bàn xã hoặc huyện … hiện nay. Thực trạng và giải pháp bồi dưỡng đội ngũ cán bộ bán chuyên trách cho các xã trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng đăng ký và quản lý hộ tịch tại một số xã … miền núi phía tây tỉnh … Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân địa phương trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN 10+ đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở Thống kê và đánh giá dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên lưu vực sông Hồng từ thượng nguồn đến biến. Cảm ứng tạo rễ tơ bằng chuyển gen. Điều khiển chất lượng điện năng của lưới điện hạ thế. Nghiên cứu phương pháp tự động đánh giá độ tương ứng của trứng cúc cu Nghiên cứu khả năng ứng dụng chất thải sau quá trình khí hóa của hạt Mắc ca. Chế tạo điện cực dựa trên vật liệu polymer bằng các phương pháp quang học và định hướng ứng dụng cho cảm biến. Chức năng hóa vật liệu graphene định hướng ứng dụng cảm biến điện hóa và dự trữ năng lượng Chế tạo điện cực dựa trên vật liệu polymer bằng các phương pháp quang học và định hướng ứng dụng cho cảm biến Nghiên cứu sự biến động nước mặt ở các khu vực nhiệt đới gió mùa sử dụng ảnh vệ tinh SAR Sentinel-1 Thiết kế cấu trúc vàng kích thước micro tuần hoàn định hướng ứng dụng cho cảm biến chiết suất. 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về răng miệng Đề tài nghiên cứu khoa học về răng miệng Ảnh hưởng của việc hút thuốc và sử dụng rượu tới răng miệng Bệnh tiểu đường và sức khỏe răng miệng Mô học răng miệng và giải phẫu răng Ảnh hưởng của nước bọt đến tính chất hóa học / cơ học của dây chỉnh nha. Nghiên cứu khoa học về bệnh sâu răng Nghiên cứu thực trạng sức khỏe răng miệng ở Việt Nam Khô miệng và rối loạn tuyến nước bọt Tái tạo men răng Yếu tố ảnh hưởng đến độ bền và thẩm mỹ của răng sứ Nghiên cứu các tổn thương niêm mạc miệng và lưu lượng nước bọt trên bệnh nhân tiểu đường và cao 10+ đề tài nghiên cứu khoa học kỹ thuật thcs Ảnh hưởng của game online đối với học sinh THCS Nghiên cứu làm thủy tinh lỏng từ tro trấu Làm giấy quỳ tím từ hoa chiều tím Sử dụng sức gió để bơm nước tưới cà phê, tiêu và các loại cây trồng khác bằng phương pháp tưới nhỏ giọt Chế tạo nước rửa bát sinh học Chế tạo mô hình xe môi trường đô thị đa năng Hệ thống cảnh báo lũ sớm Giải pháp giảm thiểu sử dụng và xử lý hiệu quả rác thải nhựa tại trường X Nghiên cứu phương pháp khử Clo dư trong nước thải Hệ thống đèn xe thông minh 10+ đề tài nghiên cứu khoa học về thời trang Đề tài về thời trang Tik Tok quyết định xu hướng thời trang như thế nào Thời trang như một phương tiện giao tiếp Làm thế nào Paris và Milan trở thành những thành phố thời trang quan trọng nhất Giới tính trong thời trang Làm thế nào để phát triển phong cách cá nhân Tầm quan trọng của tuần lễ thời trang đối với ngành thời trang Phân biệt chủng tộc trong quảng cáo thời trang Thương hiệu toàn cầu tốt nhất Ảnh hưởng của ngành công nghiệp âm nhạc đến thời trang Thời trang bị ảnh hưởng như thế nào bởi người nổi tiếng 10+ đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ Đề tài cấp bộ Thực trạng và một số giải pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm chay Nghiên cứu xây dựng quy trình phân tích nhanh một số phụ gia thực phẩm bằng kỹ thuật điện di mao quản sử dụng thiết bị di động. Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật xác định một số kháng sinh nhóm Quinolon trong thực phẩm và thức ăn chăn nuôi Giải pháp cải thiện dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe phòng chống bệnh tật cho học sinh dân tộc thiểu số tại các trường trung học cơ sở nội trú khu vực miền núi phía Bắc Xử lý nước thải công nghiệp khí hóa than khó phân hủy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên bằng quá trình nội điện phân kết hợp màng sinh học Định hướng quy trình nghiên cứu xử lý tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam Nghiên cứu các giải pháp tối ưu và lấy mẫu dữ liệu huấn luyện cho các mô hình học máy trong bài toán dự đoán lỗi phần mềm Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí trường đại học bền vững Sustainable Campus cho Việt Nam Nghiên cứu khả năng sử dụng trí tuệ nhân tạo để dự báo biến động các biến số tài chính vĩ mô Việt Nam Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất rượu men lá tại Bình Trị Thiên 10+ đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Đề tài cấp trường Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường X Nghiên cứu việc nhận thức sử dụng tiếng mẹ đẻ Nghiên cứu về việc sử dụng các hoạt động giao tiếp trong việc dạy kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên Xây dựng mô hình giảng đường thông minh phục vụ dạy học tại trường X Bạo lực trong mối quan hệ vợ chồng Thực trạng và các yếu tố nguy cơ Thực trạng hoạt động trách nhiệm xã hội của các cơ sở lưu trú – hàm ý chính sách và giải pháp Thực trạng hoạt động của hệ thống nhà vệ sinh công cộng tại các điểm du lịch trên địa bàn XX Phát triển sản phẩm du lịch từ vốn văn hóa Chuyển giao quyền lực cấu trúc Lý luận và ứng dụng Hoạt động tự chăm sóc sức khỏe của phụ nữ tuổi trung niên 10+ tên đề tài nghiên cứu khoa học đơn giản Tên đề đơn giản Tác động của Facebook đến nhận thức và hành vi của giới trẻ Nhận thức về bảo vệ chủ quyền biển đảo của giới trẻ hiện nay Mối quan hệ giữa kiến thức về quan hệ tình dục an toàn và tỷ lệ nạo phá thai Nhận thức, thái độ, hành vi của giới trẻ đối với người thuộc cộng đồng LGBT Giá trị của bữa cơm gia đình trong lối sống nhanh của xã hội hiện nay Các yếu tố tác động đến nhu cầu vui chơi về đêm của du khách châu Âu tại thành phố Hồ Chí Minh Ảnh hưởng của Tiktoker đến hành vi mua sắm của giới trẻ hiện nay Ảnh hưởng của trang bị kỹ năng mềm đến cơ hội việc làm của sinh viên hiện nay Nghiên cứu những vấn đề tâm lý – Xã hội của trẻ em có bố mẹ đi làm xa nhà Biện pháp giáo dục tình yêu thương bạn bè cho trẻ 5 -6 tuổi Các đề tài nghiên cứu khoa học về tài chính Các đề tài về tài chính Các vấn đề về an ninh mạng ảnh hưởng đến ngân hàng trực tuyến và các giao dịch trực tuyến Ảnh hưởng của việc tăng lãi suất của Fed đối với các quốc gia phát triển và đang phát triển Ưu điểm và nhược điểm của quản lý đầu tư Phân tích về quản lý tín dụng và thực tiễn cho vay của ngân hàng ở các nước đang phát triển và / hoặc đã phát triển. Tác động của kiểm soát ngân sách đối với hoạt động của tổ chức Phân tích việc sử dụng các trạng thái tài chính trong việc đánh giá hoạt động của công ty Fintech như một nhân tố của sự phát triển sáng tạo của thị trường tài chính Tiền điện tử và cách nó ảnh hưởng đến thị trường tài chính Thị trường chứng khoán và sự phát triển của nó trong thập kỷ thứ ba của thế kỷ 21 Tác động của việc thao túng thị trường hàng hóa đối với thương mại 10+ đề tài môn phương pháp nghiên cứu khoa học Đề tài môn phương pháp nghiên cứu khoa học Thị trường tiền tệ và chính sách quản lý tiền tệ, lãi suất. Mô hình thực tiễn trong lĩnh vực ngân hàng trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Nâng cao vai trò của tín dụng ngân hàng trong sự phát triển kinh tế thành phố HCM thời kỳ 2015 – 2020. Những luận cứ khoa học về sự ra đời của ngân hàng trong điều kiện sản xuất hàng hóa. Nghiên cứu phương pháp quản lý đô thị trên địa bàn thành phố HCM những giờ kẹt xe. Một số đề xuất phát triển thị trường hàng hóa tập trung tại TPHCM hiện nay. Một số định hướng mở rộng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam nhằm cung ứng vốn cho doanh nghiệp giai đoạn kinh tế mới. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Những đề xuất giải pháp quản lý danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu những hiện tượng tôn giáo mới tại Việt Nam Các đề tài nghiên cứu khoa học về ngân hàng Các đề tài về ngân hàng Rủi ro về gian lận trong ngân hàng trực tuyến Chất lượng tín dụng trong cho vay và đầu tư ngân hàng Tác động của Internet đối với ngân hàng Số hóa ngân hàng Những lợi ích cho người dùng Tại sao lại sử dụng đòn bẩy trong đầu tư Nâng cao vai trò tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế Nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu của ngân hàng Quản lý tiền ảo Bitcoin ở Việt Nam Các nhà đầu tư có phản ứng quá mức với các thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam Xu hướng ngân hàng số 10+ đề án nghiên cứu khoa học Đề án nghiên cứu khoa học AI có phải là mối đe dọa đối với con người Tác động của sự nóng lên toàn cầu đối với sinh vật biển. Thử nghiệm mỹ phẩm trên động vật có đạo đức không? Những thuận lợi và khó khăn của canh tác hữu cơ. Hiệu ứng nhà kính quá trình, các thành phần và rủi ro Trí tuệ nhân tạo Ưu và nhược điểm Ảnh hưởng sự cố tràn dầu đối với hệ sinh thái Xu hướng thái độ của người tiêu dùng về công nghệ sinh học nông nghiệp. Tình trạng dinh dưỡng của người ăn chay và người ăn chay. Tác động của âm nhạc đến bộ não của con người Các đề tài nghiên cứu khoa học phổ biến khác Các đề tài nghiên cứu khoa học phổ biến khác Đánh giá hiệu quả hoạt động NCKH trong các trường ĐH trong giai đoạn 1996-2000 Hiện tượng tôn giáo mới Nghiên cứu xác định chỉ số thu nhập và công nghệ xử lí , bảo quản thích hợp cho dứa và đu đủ Quyền lực tri thức trong tư tưởng của Alvin Toffler Chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế – Lý luận và thực tiễn Bài viết đã chia sẻ cho bạn đọc những kiến thức về đề tài nghiên cứu khoa học kèm hơn 200 các đề tài đa dạng chuyên ngành được chọn lọc kỹ lưỡng. Hy vọng bạn đã biết cách để tạo nên một đề tài nghiên cứu hoặc đơn giản là lựa chọn được trong rất nhiều đề tài mà chúng tôi cung cấp. Nếu vẫn chưa chọn được đề tài ưng ý, bạn hãy liên hệ đến Luận văn 24 – đơn vị thuê viết luận văn để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất. Tôi là Thu Trà, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 24 – Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website – Hotline 0988552424. Post Views Hôm đó những người đồng tính và những người ủng hộ họ từ khắp nơi trên thế giới đã diễu hành, dùng các loại tư thế để phơi bày yêu cầu của quần thể mình, mong muốn xã hội xoá bỏ sự kỳ thị đối với họ. Mặc dù người ta còn đang nghiên cứu và bàn luận về hiện tượng đồng tính, nhưng đã có nhận thức khoa học tương đối nhất trí là đồng tính không phải là một loại bệnh, mà là một hiện tượng sinh hoạt tình dục bình thường của một số ít người, xã hội nên có thái độ tiếp nhận và khoan dung. Hiện tượng đồng tính luyến ái là một mô thức hành vi cơ bản tồn tại phổ biến trong lịch sử loài người, trong các nền văn hoá bất kể là trong xã hội công nghiệp phát triển cao hay là trong bộ lạc nguyên thuỷ ăn sống nuốt tươi, bất kể là trong thế kỉ 21 hôm nay hay là từ thời cổ đại xa xưa. Trong nhiều dân tộc chưa khai hoá và nửa khai hoá, đồng tính luyến ái là một hiện tượng rất dễ nhìn thấy; có khi chúng chiếm địa vị ưu thế trong nền văn hoá bản địa, những người đồng tính do quan hệ tình dục đặc biệt khác thường thậm chí được sự tôn kính, ngưỡng mộ của mọi người. Hơn năm trước, người Ai Cập đã coi hành vi quan hệ tình dục giữa những người đàn ông là một sự việc thần thánh, theo truyền thuyết, hai vị thần là Horus và Seth đã từng có hành vi này. Trong hậu cung cổ Ai Cập, mỗi một người phụ nữ đều có một người bạn đồng tính thân thiết. Cổ Ấn Độ cũng có tình hình tương tự. Người Carthage ở miền bắc châu Phi cổ đại, một bộ phận người Doniang tổ tiên người Hi Lạp, người Sixian ở vùng bắc Hắc Hải cổ đại và trong lịch sử của người Normand Bắc Âu sau này, cũng đều có ghi chép về hiện tượng đồng tính luyến ái. Theo ghi chép, tại Mesopotamia cổ đại đã tồn tại nhiều hiện tượng đồng tính, và đã có nhiều nam kĩ chuyên phục vụ cho người đồng tính, Trong thần miếu ở Babylon, các nam kĩ tụ tập trong các kĩ viện đặc biệt, do giáo hội quản lý. Nền văn minh Maya - một trong ba nền văn minh lớn của châu Mỹ La-tinh đã ghi lại hiện tượng đồng tính luyến ái trong thời kì Thanh Xuân, có chuyên gia cho rằng, nền văn minh Maya thuộc về nền văn minh ưu thích đồng tính luyến ái, thậm chí là nền văn minh dị tính. Con trai ở Maya trước khi kết hôn thường được cha mẹ cho một nô lệ nam thoả mãn nhu cầu của mình. Người Maya còn cho rằng, đồng tính luyến ái giữa những người trưởng thành là tính trời có sẵn, khó có thể thay đổi, vì thế đã có thái độ khoan dung với đồng tính luyến ái. Trong thời kì văn minh cổ Hy Lạp, đồng tính cũng được người ta chú ý. Ở thời đó, con trai đã trưởng thành thường nảy sinh tình yêu săy đắm với những thiếu niên đã trải qua thời kì thanh xuân nhưng chưa bước vào thời kì trưởng thành. Trong 200 năm trước Công nguyên, từ thế kỷ 6 TCN đến thế kỷ 4 SCN, người Hi Lạp coi đồng tính là một phân chỉ của “giáo dục cao đẳng”. Khi một thiếu niên đã tiếp thu xong giáo dục truyền thống cơ bản, cậu ta liền được đưa vào làm vây cánh cho một người đàn ông đã trưởng thành, người đàn ông đó được coi là “người yêu”, còn thiếu niên đó được coi là “người bị yêu”; người đàn ông đã trưởng thành vào khoảng ba mươi tuổi, chịu trách nhiệm giáo dục đạo đức, phát triển tâm trí cho thiếu niên đó, đối xử với cậu ta bằng lòng nhân từ, sự hiểu biết, tình yêu, mà mục đích duy nhất là bồi dưỡng cậu ta thành người có đạo đức hoàn mỹ. Hai người kề vai chiến đấu trong chiến tranh, nếu thiếu niên phạm sai lầm thì người đàn ông phải chịu tội thay. Khi thiếu niên này trưởng thành, cậu ta sẽ kết hôn hoặc làm “người yêu”, tức là lại làm người bảo hộ cho thiếu niên khác. Trên chiến trường, tình yêu đồng tính cũng rất đáng ca ngợi. Trong không ít chiến dịch, quân đội của Sparta vì có “tình yêu đồng tính” trong binh sĩ mà giành được thắng lợi. Plato đã bình luận việc này như sau “Một đám nhỏ binh sĩ yêu thương lẫn nhau kề vai tác chiến, có thể đánh bại một đạo quân đông đảo. Mỗi một người lính đều không muốn “người yêu” của mình thấy mình tách khỏi hàng ngũ hoặc hạ vũ khí, họ thà chết vì chiến đấu chứ không chịu nổi sự sỉ nhục này…Trong tình huống đó, một kẻ nhu nhược yếu đuối nhất, được sự cổ vũ của thần tình ái, cũng thể hiện được sự dũng cảm trời cho của người đàn ông”. Thánh quân Thebes nổi tiếng đều do các binh sĩ yêu thương lẫn nhau tổ thành. Bọn họ đánh liên tiếp ở nhiều nơi trong 33 năm, lập nên những chiến công huy hoàng, cuối cùng mới bị hoang đế Alexander của Macedoin đánh bại. Trong chiến dịch cuối cùng này toàn bộ 300 thánh quân đã hi sinh anh dũng hoặc tử thương. Tại cổ Hy Lạp không chỉ có nam đồng tính mà thời đó cũng có rất thịnh hành nữ đồng tính. Có một nữ đồng tính hoá tranh thành đàn ông, tham gia chiến tranh hoặc săn bắn, kết hôn với một phụ nữ khác và ăn ở với nhau như vợ chồng. Nghe nói nữ thi sĩ Saford đã xây dựng một trường học dành cho nữ giới tại đảo Lebos. Mặc dù đã có chồng và có con, bà vẫn tiếp nhận tình yêu của một học sinh nữ, cuối cùng bị người yêu từ bỏ bà và đã nhảy xuống biển tự tử. Nghe nói đồng tính ở thời cổ La Mã còn thịnh hành hơn thời cổ Hi Lạp. Vào thời kỳ phong kiến ở Nhật Bản thế kỷ 10 sau Công nguyên giữa những tín đồ Phật giáo Nhật Bản đã có truyền thống giao cấu bằng hậu môn kiểu cổ Hi Lạp, họ ưa thích loại quan hệ thầy trò đó của cổ Hi Lạp một nhà sư vào tuổi trưởng thành đứng ra làm thầy và người bảo hộ, nhà sư trẻ báo đáp lại bằng tình yêu và sự hiến thân. Thường xảy ra tình trạng hoà thượng ở với thiếu niên đẹp trai. Mỗi võ sĩ cũng mang theo một thiếu niên, thường vì việc tranh cướp thiếu niên mà quyết đấu. Mishumayu viết “thiếu niên đẹp trai đã thể hiện một hình tượng lý tưởng còn chưa thổ lộ”. Đến thế kỷ 17, hình thức cổ điển giao cấu bằng hậu môn bị đồng tính luyến ái giữa những người trưởng thành thay thế. Mãi đến thế kỷ 19 trong quán trà ở Nhật Bản còn cung cấp nam kỹ. Tại nước Pháp trong thế kỷ 18, thời vua Louis 14, nữ giới đã chiếm mọi địa vị đột xuất về mọi mặt. Có thể là xuất phát từ sự bất bình đối với tình trạng đó, nên trong xã hội đã hình thành những nhóm đồng tính luyến ái nam. Thành viên của các nhóm này đều không phát sinh bất kỳ quan hệ nào với nữ giới, trong các thành viên có nhiều người là quý tộc, hoàng tử cũng bị lôi cuốn vào đó, khiến Louis giật mình kinh sợ. Đồng tính luyến ái mang màu sắc thương mại là một hiện tượng mại dâm của thế kỷ 19, đặc biệt là ở hai nước Anh, Pháp. Nam kỹ có ở Pháp tương đối sớm sau khi vứt bỏ tập tục xấu thiêu nữ phù thuỷ, trong một giai đoạn thời gian rất dài tục lệ này đã được đổi thành thiêu những người đồng tính luyến ái. Tuy vậy, đến năm 1725 quan niệm của người ta đã thay đổi nhiều. Trong bộ luật Napoleon, biện pháp trừng phạt những người đồng tính đã được khoan dung khá nhiều. Đến năm 1806, nam đồng tính, nữ đồng tính không còn là viêc hiếm thấy và chí ít chúng cũng được khoan dung. Lúc đó trong mấy trăm nam kỹ ở Paris, có một người nổi tiếng nhất tên là André, mà tiền qua đêm với người này cao tới franc, trong khi tiền lương một ngày lúc đó của một công nhân kỹ thuật chỉ được 2 đến 4 franc. Ở nước Anh, pháp luật đối với hành vi đồng tính tương đối nghiêm khắc. Vụ án Osca Wide đã gây ra bao nhiêu sóng gió, Osca Wide do đồng tính luyến ái mà bị sử hai năm tù giam. Năm 1900 sau khi tạ thế, các sách, kịch bản của ông còn bị cấm, mà giới xuất bản và giới văn nghệ vẫn phải câm như hến. Đến thế kỉ 20, thời Đức hoàng Wilhem thứ 2, số người đồng tính luyến ái ở Đức khá nhiều. Theo cách nói của Hurdsfield, tại Berlin lúc đó có nam kỹ nhưng có tài liệu nói người, có tài liệu nói người, vì vậy người Pháp gọi đồng tính luyến ái là “bệnh của nước Đức”. Mặc dù lúc đó pháp luật của nước Đức đối với đồng tính luyến ái vô cùng nghiêm khắc, nhưng chỉ được áp dụng khi liên quan đến việc dụ dỗ thiếu niên và khiến cho dư luận công chúng chú ý, hơn nữa chỉ áp dụng với trăm họ vô danh. Lúc đó, những lời đồn đại rằng các quan chức cấp cao trong quân đội, hành chính, ngoại giao có người đồng tính luyến ái đã lan truyền khá rộng. Một tờ báo ở Berlin thậm chí đã viết ở tầng lớp tối cao có một tập đoàn đồng tính, hình thành một chính phủ thứ hai, bưng bít nhà vua. Thế là, vạch trần tập đoàn này trở thành hành động yêu nước. Nói chung công chúng lúc đó đều có thể phân biệt được người đồng tính, họ chế diễu những người này là “người của điều 175”. Đó là vì tại điều 175 của bộ luật hình sự Đức có ghi cần phải cấm hành vi đồng tính luyến ái nam giới. Trong một số bộ lạc còn tồn tại trên thế giới ngày nay, có một số tương đối lớn bộ lạc cho phép quan hệ đồng tính. Ý nghĩa của hiện tượng này vô cùng quan trọng, nó cho thấy rõ đàn áp đồng tính luyến ái không có căn cứ tự nhiên, nó chỉ là sản vật của văn hoá và thời đại. Một số bộ lạc nguyên thuỷ ở miền Tây Bắc nước Mỹ, như bộ lạc Cadik, người ta coi con trai như con gái để nuôi, cho cậu bé mặc quần áo con gái, làm những công việc của nữ giới và chỉ chơi với đám con gái. Đến khi 10 - 15 tuổi thì cho kết hôn với đàn ông nhiều tiền. Tại vùng Kemsey Australia, con trai sau khi trưởng thành nếu không tìm được bạn gái thì sẽ cùng sinh hoạt với “người vợ thiếu nam” ở miền Nam Australia, những người già không có vợ thường có hai thiếu niên chăm sóc, coi họ là đối tượng để giao cấu bằng hậu môn. Trong người Swan ở Bắc Phi phổ biến có hành vi đồng tính nam. Nhưng người đàn ông Swan mượn lẫn cọn trai của nhau, công khai nói chuyện tình yêu nam giới giữa họ với nhau như người ta nói chuyện tình yêu nam nữ. Những người con trai đã kết hôn hoặc chưa kết hôn đều tuân theo yêu cầu của tập tục, tiến hành hoạt động đồng tình luyến ái. Nếu như một người Swan không có hành vi đồng tính với một người đàn ông khác, người đó sẽ được coi là thánh. Trong dân tộc Thổ Trước trên đảo Malacxia ở miền Tây Nam Thái Bình Dương, những người trai trẻ thông qua thủ dâm để đạt được khoái cảm và coi đó là một sự thay thế cho việc giao cấu khác giới, hành động đó rất được khuyến khích. Nói chung đối với nam giới, quan hệ đồng tính được xã hội tán đồng. Hoạt động này có thể được công khai thảo luận trong xã hội. Trong một số bộ lạc ở vùng đông bắc Xibêria thường có một số đàn ông lấy một số thanh niên đã trưởng thành làm vợ. Trong một số người ở đảo Hawaii , hiện tượng đồng tính cũng rất phổ biến. Trong những người Eskimo, có một số phụ nữ từ chối kết hôn với nam giới, tự mình thể hiện tác phong, hành vi nam giới. Qua điều tra thống kê trong 120 nền văn hoá của 135 xã hội, có 48% xã hội phản đối đồng tính luyến lái, 8% coi thường đồng tính luyến ái; 27% chấp nhận đồng tính luyến ái là phù hợp truyền thống. Một công trình nghiên cứu cho thấy người ta phát hiện trong 76 bộ lạc nguyên thuỷ có 49 bộ lạc coi đồng tính luyến ái là hành vi bình thường, có hai phần ba bộ lạc cho rằng đồng tính luyến ái thời kỳ thanh xuân là bình thường, có thể chấp nhận. Tại bùng Kubo, Mahawei, Suni thuộc lưu vực sông Amazon và một số địa phương khác ở Bắc Mỹ người ta đều cho đó là hiện tượng bình thường. Trong thế kỷ 20, có tới hai phần ba số xã hội này dường như thừa nhận ngầm hoạt động đồng tính luyến ái. Trong lịch sử hơn 4000 năm của Trung Quốc, hiện tượng đồng tính luyến ái đều được ghi chép khá nhiều trong chính sử và dã sử. Ngay từ đời Thương xa xưa, Trung Quốc đã có những câu “Đứa trẻ bướng bỉnh”, “con trai đẹp phá sản, con gái đẹp phá nhà”; rồi truyện các nhân vật lịch sử như “miếng đào thừa” đời Xuân Thu, “đứt tay áo” đời Hán, “Long Dương Quân” đời Chiến Quốc; “An Lãng Quân” đời Chiến Quốc. Sử ghi Long Dương Quân “rũ chăn gối” cho Nguỵ Vương; Di Tử Hà và Vệ Linh Công “chia đào mà ăn”; Hán Ai Đế và Đổng Hiền nằm đè lên tay áo nhà vua, nhà vua không chịu được tỉnh giấc “đứt tay áo mà ngồi dậy”. Đời sau đã dùng các từ “Long Dương”, “Miếng đào thừa”, “Đứt tay áo” để ám chỉ hiện tượng đồng tính luyến ái. Từ sử sách còn có thể tìm ra “vào thời Tiền Hán, hầu như mỗi vị hoàng đế đều có một đối tượng đồng tính luyến ái. Hán Văn Đế sủng ái Đặng Thông, cho anh ta quyền khai mỏ đồng đúc tiền, vì thế Đặng Thông giàu như các vương hầu, trở thành người đàn ông trong lịch sử Trung Quốc vì “sắc” mà kiếm lợi nhiều nhất. Trong các cung nhân thời Hán còn có hiện tượng đồng tính luyến ái, bọn họ ăn mặc, trang điểm, ghép thành vợ chồng, cùng ngủ cùng ăn. Khi đó Trần hoàng hậu không có con, lệnh cho nữ cung nhân mặc y phục đội mũ đóng giả làm con trai cùng ngủ với bà ta. Sau khi biết việc này, Hán Vũ Đế cả giận phế bỏ hoàng hậu, trách bà ta là “nữ mà dâm như nam”. Sử sách không ghi hiện tượng đồng tính luyến ái đời Đường và Ngũ Đại, nhưng ở đời Tống hiện tượng này rất hưng thịnh. Tống Huy Tôn phải ra lệnh “ Nam mà làm đĩ, phạt đánh một trăm trượng, người tố cáo được thưởng năm mươi quan”. Đời Nguyên, làn gió “nam sắc” suy yếu, nhưng đến đời Minh lại hưng thịnh. Đời Thanh sau một thời gian cực thịnh đã giảm dần. Có không ít tiểu thuyết Trung Quốc đã miêu tả hiện tượng đồng tính luyến ái như “Hồng Lâu Mộng”, “Kim Bình Mai”, đáng chú ý là cuốn “Phẩm hoa bảo giám” hoàn toàn lấy việc miêu tả hiện tượng đồng tính làm chủ đề Từ những sự thực nêu trên qua các thời đại, ở nhiều nơi trên thế giới, có thể rút ra kết luận hiện tượng đồng tính luyến ái là một mô thức hành vi tồn tại khá phổ biến trong xã hội loài người; xưa và nay, ở mọi nơi đều không có ngoại Thế giới quanh ta, số 24, 09/2005

nghiên cứu khoa học về đồng tính