nghi thức chẩn tế miền trung
Chẩn đoán thường được xác định bằng X quang. - Tắc mật do nhiễm sán lá ruột (chẳng hạn như Clonorchis và Fasciola ), sỏi mật (liên quan đến viêm đường mật và / hoặc viêm túi mật trong một số trường hợp), hẹp, khối u và các nguyên nhân khác. - Viêm tụy do tắc nghẽn cơ học, rượu, nhiễm trùng và các nguyên nhân khác.
Từ năm 1951 đến năm 1987, trung bình có 0,49 trường hợp mỗi năm được báo cáo cho Bộ Y tế California (Hoa Kỳ) so với 2,25 trường hợp mỗi năm từ năm 1988 đến năm 1991, 3 trường hợp vào năm 1992, 4 trường hợp vào năm 1993, 11 trường hợp vào năm 1994 và 23 trường hợp ở 1995
Bác sĩ chữa bệnh để giúp con nhớ được mặt mẹ. Trong quá trình đón tiếp bệnh nhân tới khám bệnh, bác sĩ Thân Văn Thịnh, Khoa Khám bệnh (Bệnh viện ung bướu Hà Nội) đã gặp không ít sai lầm của bệnh nhân như không đi tầm toát sớm, chờ tới khi có triệu chứng mới đi khám thì phát hiện ung thư đã ở giai
Khoa Khám bệnh hoạt động từ 6h đến 17h00 hàng ngày (Trừ Lễ Tết và các ngày nghỉ bù theo quy định của Nhà nước) Cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin, bệnh án điện tử trong quá trình khám và điều trị, quy trình khám - điều trị ngoại trú nhanh gọn, giảm thiểu
Xin hỏi việc đó có phải là nghi lễ của Phật giáo? (PHẠM KHANG, khangpham111222333@gmail.com) ĐÁP: Bạn Phạm Khang thân mến! Đàn tràng chẩn tế âm linh cô hồn trong Phật giáo Bắc truyền về khoa nghi căn bản là một nhưng mỗi vùng miền có sự thể hiện các lễ tiết khác nhau.
Tổng quan. Trung tâm Y khoa - Đại học Đà Nẵng được thành lập theo Quyết định số 256/QĐ-ĐHĐN ngày 14/01/2015 của Giám đốc Đại học Đà Nẵng, là đơn vị y tế độc lập hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng dưới sự quản lý của Đại học Đà Nẵng và Sở Y
Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Đám cưới hỏi mỗi vùng miền theo phong tục truyền thống lại có những đặc trưng khác nhau. Để tránh những sai sót thì cô dâu chú rể nên tìm hiểu kĩ trước khi tổ chức hôn lễ. Sau đây, Venus xin “mách nước” đặc trưng lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung để bạn có sự chuẩn bị chu đáo nhất nhé! Người miền Trung chăm chỉ, thật thà, gần gũi và mộc mạc. Chính vì thế, lễ ăn hỏi của người miền Trung cũng đơn giản hơn so với miền Bắc và Nam. Họ coi trọng lễ nghi nhưng lễ vật lại coi nhẹ. Nhà trai có thể chuẩn bị mâm lễ ăn hỏi đơn giản nhưng cần nắm rõ các thủ tục, nghi thức trong lễ ăn hỏi để làm hài lòng họ nhà gái. Xem thêm Lễ ăn hỏi 7 tráp Lễ ăn hỏi 9 tráp >>> Click ngay để không bỏ lỡ những thông tin hữu ích về dịch vụ tráp ăn hỏi, tráp dạm ngõ tại Venus. Lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung gồm những gì? Thông thường, người miền Trung lựa chọn số lượng tráp lễ là 5 trong đám ăn hỏi. Vậy lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung gồm những gì? 1. Tráp trầu cau Dù ở bất kì vùng miền nào thì tráp trầu cau không thể thiếu vì nó có ý nghĩa truyền thống dân tộc tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng gắn bó. Mâm lễ gồm buồng cau kết cùng những lá trầu kết hợp trang trí hoa tươi, phụ kiện tạo vẻ đẹp mắt, sang trọng cho mâm lễ. Đối với người Huế, bạn nên lưu ý trên mâm tráp trầu cau cần có thể gừng và muối để thể hiện lời hứa hẹn ước chung thủy, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong cuộc sống. 2. Tráp bánh phu thê Lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung bắt buộc phải có tráp bánh phu thê. Loại bánh thể hiện cho tình cảm vợ chồng chung thủy với nhau đến hết cuộc đời. Bánh được xếp thành từng cặp tượng trưng cho đôi uyên ương. Số lượng bánh phải là số chẵn và không có yêu cầu về số lượng. Đây là nét đặc trưng của người miền Trung. 3. Chè, thuốc và rượu Tráp lễ thứ 3 không thể thiếu đó chính là chè, thuốc, rượu được xếp chung mang ý nghĩa tượng trưng. Bạn nên tùy chọn số lượng để có mâm tráp đẹp mắt và không quá sơ sài. Hãy chứng tỏ cho nhà gái biết được sự trân trọng mà gia đình nhà trai dành cho nhà gái thông qua việc chuẩn bị lễ tráp. 4. Tráp nến tơ hồng Lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung không thể thiếu cặp nến tơ hồng. Trong lễ ăn hỏi, cặp nến tơ hồng sẽ được thắp sáng. Đối với người miền Trung, nghi thức rất cầu kỳ và nhiều nghi thức. Việc chuẩn bị tráp nến tơ hồng đảm bảo cử hành hôn lễ không bị thiếu trước hụt sau. 5. Các lễ vật khác Quan niệm của người Trung sẽ thách cưới nhà trai dựa vào điều kiện kinh tế gia đình. Nhưng thực tế thì mỗi gia đình đều cố gắng chuẩn bị lễ vật cầu kì hơn để chứng tỏ thành ý với nhà gái. Bạn có thể chuẩn bị thêm tráp lợn sữa quay, tráp nem chả hay tiền sính lễ,… Đặc biệt là đối với các cặp đôi trẻ thì nghi lễ, tập tục truyền thống luôn làm họ bối rối. Vì vậy, để lễ ăn hỏi diễn ra thuận lợi, hoàn hảo thì bạn nên cùng người bạn đời của mình cùng nhau tìm hiểu trước Đối với các cặp đôi, các tập tục trong cưới hỏi luôn làm cho họ bối rối. Chính vì vậy, cả hai phải cùng nhau tìm hiểu và chuẩn bị lễ vật đám hỏi để có một lễ hỏi vừa thuận lợi vừa không đi ngược lại với phong tục tập quán truyền thống. Trên đây là những chia sẻ của Venus về đặc trưng lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung. Hy vọng đã giúp ích cho bạn trong việc tìm kiếm thông tin. Nếu còn bất kì thắc mắc nào, đừng ngần ngại gọi ngay cho Venus để được tư vấn và giải đáp tận tình. CÔNG TY SỰ KIỆN VENUS Hotline Website Add Đầu ngõ 133 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội
Sau hàng nghìn năm du nhập vào nước ta, Phật giáo đã được đông đảo cư dân Việt tiếp nhận, vì Phật giáo không chỉ lý giải các vấn đề phát sinh trong cuộc sống, mà còn có những hoạt động thực tế giúp giải quyết những mâu thuẫn xã hội. Trong số đó có lễ cúng chẩn tế, nghi thức này tuy chưa diễn tả hết tinh thần và tư tưởng Phật giáo, nhưng là một trong những nỗ lực của Phật giáo theo hệ tư tưởng Bắc truyền, nhằm vận dụng những hoạt động thực tiễn để đưa Phật giáo đến gần hơn với người dân. Phật giáo khi du nhập đến bất kỳ vùng đất nào đều có sự tiếp biến với văn hóa địa phương. Tại Nam bộ, lễ cúng chẩn tế đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa bản địa, đồng thời cũng tạo nhiều ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống cư dân nơi đây. KHÁI NIỆM CÚNG CHẨN TẾ Chẩn tế có nguồn gốc từ chữ Hán, là dùng tiền hoặc thực phẩm, y phục,… để “cứu tế cho dân nghèo đói hoặc gặp tai họa”[1]. Thiền sư Thích Nhất Hạnh có định nghĩa chẩn tế như sau “chẩn” là phân phát; “tế” là cứu giúp, tế độ, đưa người khác ra khỏi hoàn cảnh ngặt nghèo[2]. Trong tâm thức chung của cộng đồng, khi nói đến cúng chẩn tế, mọi người thường nghĩ đến cúng cho người chết, hay hiểu đơn giản “cúng chẩn tế là dâng các loại phẩm vật cho người đã chết”. Tuy nhiên, lễ cúng chẩn tế không chỉ cho người quá cố mà còn đáp ứng yêu cầu của người sống, là một phần trong lễ cầu an và cầu siêu. Về niên đại lễ chẩn tế du nhập Việt Nam, hiện chưa có một tư liệu nào nói chắc chắn. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang cho rằng khoa nghi này do ngài Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ XIII. Hiện chúng ta còn có một tư liệu do Trúc Lâm Đệ tam tổ Huyền Quang soạn là “Pháp sư đạo tràng công văn cách thức thủy lục chư khoa”. QUY TRÌNH THỰC HIỆN LỄ CÚNG CHẨN TẾ Quy trình này được sử dụng trong lễ cúng kỳ siêu bạt độ, dành cho những vong hồn đang chịu khổ ở địa ngục hoặc chết oan ức. Nghi thức chẩn tế cô hồn ở Việt Nam hiện gồm ba loại Đại khoa, Trung khoa và Tiểu khoa còn gọi là Tiểu Mông Sơn. Chữ “khoa” ở đây có thể hiểu là trình tự, các bước tiến hành nghi lễ. Đại khoa hay còn gọi là Khoa Du Già, được thực hiện ít nhất 6 giờ đồng hồ. Trung khoa là phần lược của Đại khoa, gồm hai phần Đàn thượng và Đàn hạ. Đàn thượng là các nghi thức nhập đàn, ấn chú, chân ngôn; còn Đàn hạ là phần thỉnh Thập loại cô hồn. Tiểu khoa là nghi lễ cúng cô hồn vào mỗi buổi chiều tại các chùa theo Phật giáo Bắc tông. Đây vốn xây dựng theo tinh thần của Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Kinh, sau này được phát triển thêm với tên gọi mới “Mông Sơn Thí Thực Nghi”, nghĩa là ngoài việc chú trọng cúng thí thức ăn, còn có phần quy y và thuyết giảng cho vong linh nghe. Trong các đàn Đại khoa và Trung khoa đều có phần “nhập Tiểu Mông Sơn”, chính là nghi thức Tiểu khoa này. Lễ cúng chẩn tế có hai phần chính là mật pháp và hiển pháp. Trong đó, mật pháp thuộc về các ấn chú và quán tưởng. Hiển pháp gồm các bài kinh chú, hành động cử chỉ… mà mọi người có thể thấy và hiểu được. Sự gia giảm trong các đàn chủ yếu ở phần hiển pháp, riêng tâm pháp tuyệt đối không được lược giảm. Một ban kinh sư thường có 5 – 7 vị gồm Sám chủ hay Đàn chủ, Đàn cả hoặc Thầy cả; Duy na kinh sư đánh chuông; Duyệt chúng kinh sư gõ mõ; Vĩ thuận và Vĩ nghịch hai vị kinh sư đánh đẩu; Bốn Trung phan các vị kinh sư tụng kinh, hòa, tán; Phi chung kinh sư đánh chuông lớn; Phi cổ kinh sư đánh trống lớn. Lễ Thượng phan Sơn Thủy Để triệu thỉnh tất cả hương hồn đã vong thân trên không, trên lộ, dưới nước về tại địa điểm có cây phan. Sau đó, sẽ được đưa vào đàn tràng để tham dự pháp hội, nghe pháp âm của Đức Phật mà tỉnh ngộ để thoát khỏi cảnh khốn cùng. Nghi thức Kiết giới Đàn tràng Cả dưới đất lẫn trên không đều quy định khu vực đàn tràng, kiết giới là biến đổi nơi lập đàn tràng thành chốn trang nghiêm thanh tịnh. Lễ Hạ phan Sơn Thủy Thỉnh chư hương linh dựa vào Thần Phan, theo tiếng niệm Phật tiếp dẫn để an tọa tại đàn tràng. Lễ Hưng Tác Thượng đại Tràng phan Sau khi an vị Phan Sơn Thủy xong, lễ Hưng Tác bắt đầu để cáo với giang sơn, hồn thiêng đất nước, chư Hộ pháp Long thần và Thổ địa Tôn thần tại nơi diễn ra buổi lễ biết rõ thời gian, địa điểm tổ chức trai đàn. Đồng thời, hướng dẫn âm linh cô hồn về dự trai đàn, theo lời triệu thỉnh trong Đại Tràng phan dài 36m, được viết bằng chữ Hán trên giấy ngũ sắc. Lễ Bạch Tổ, Bạch Phật, Khai Kinh Cung thỉnh chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức quang lâm bảo điện để cung hành nghi lễ, Thỉnh Tiêu Diện Đại Sĩ. Lễ Giải Oan Bạt Độ Là nghi thức giải oan đoạn nghiệp. Đây là giây phút người sống và kẻ chết đều mong mỏi. Trước giờ hành lễ, tất cả trai chủ, Phật tử đều tập trung đầy đủ tại chánh điện hoặc nơi làm lễ để cung thỉnh vị Sám chủ và Ban kinh sư quang lâm cử hành lễ. Trong lễ Bạt Độ, đặc biệt nhất là nghi thức phá ngục để cứu hương linh đang chịu khổ trong đó ra. Khi ấy sẽ có một vị tu sĩ hoặc người đời đóng vai chèo đò đưa các thầy sang sông cứu vớt hương linh. Nghi thức này không phổ biến, chỉ khi nào gia chủ có nhu cầu và thường được thực hiện ở miền Trung. Ở miền Nam thay vào đó là nghi thức Phát Tấu, gồm phần Xá Hạc chim Hạc và Xá Mã ngựa, nhờ hai con vật này chở tấu chương về tâu các nơi như thiên đình và thủy cung. Đại lễ Trai đàn Chẩn tế Các vị Gia Trì Sư và kinh sư sẽ cung hành nghi thức Tham lễ Giác Hoàng lễ Phật. Tham lễ xong, vị Gia Trì Sư và chư vị kinh sư đi trước; gia chủ và những người khác đi sau ra ngoài đàn, đến trước án Tiêu Diện, Địa Tạng, Ngũ Phương Phật để cung thỉnh chư Phật chứng minh đàn tràng. Tiếp theo, đến Bàn Giác Hoa tiến hành nghi thức thỉnh vị Gia Trì Sư lên bảo tọa, thay Phật thuyết giới cho âm linh cô hồn. Sau đó, Ngài kiết ấn, niệm chú vào sư tử tòa, bảo tọa, màn song khai và chính tự thân trước khi ngồi kiết già trên bảo tọa. Màn song khai mở ra, nghi thức chẩn tế bắt đầu sái tịnh, cung thỉnh chư Phật và Bồ tát chứng minh, thỉnh chư hương linh và 12 hạng cô hồn cùng đến dự. Tiếp theo là nhập Tiểu Mông Sơn để biến hóa thức ăn phù hợp và dư đủ cho các hạng cô hồn dùng. Sau đó, sẽ rưới nước Cam lộ, vị Tả chức nhận bình nước đã làm phép từ Sám chủ đi từ từ đến phía trước và rưới nước. Tại vị trí đó, nhiều Phật tử chuẩn bị sẵn vật dụng để hứng nước Cam lộ[3]. Tiếp theo là hồi hướng công đức, cầu cho tất cả chúng sanh an lành, sanh về cực lạc. Sau khi hạ đàn, chư Tăng trở về nội đàn, đến bàn Phật làm lễ Tạ Phật hoàn Kinh, lễ đến đây hoàn mãn. Ngoài ra, lễ cúng còn có các phần phóng đăng, phóng sinh… BỐ TRÍ ĐÀN TRÀNG TRONG LỄ CÚNG CHẨN TẾ Được chia thành hai phần nội đàn và ngoại đàn. Nội đàn gồm Bàn Phật chùa có chánh điện, tư gia có bàn thờ Phật là nơi tham lễ Giác Hoàng; bàn kinh nơi để chuông, mõ, pháp khí. Ngoại đàn gồm Màn Sư tử tòa bức màn có hình sư tử dáng vẻ oai nghiêm, treo sau lưng vị Gia Trì Sư, tượng trưng chỗ ngồi của Phật; Bảo tọa chỗ ngồi của Gia Trì Sư, đại diện chư Phật để hoằng dương chánh pháp; Màn song khai bức màn chia đôi trước bảo tọa, đóng lại hoặc mở ra tùy theo quy định của khoa nghi; bàn Kim đài kinh sư ngồi hai bên tả hữu, mỗi bên ba hoặc bốn vị; Bàn Giác Hoa Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, một Đức Phật ở cõi Ta bà; các án Ngũ phương Phật gồm năm bàn thiết trí theo hướng Đông – Tây – Nam – Bắc và Trung ương; bàn Hộc thực vị trí thấp, để bài vị và đồ cúng cô hồn; bàn Tiêu Diện cao hơn bàn Địa Tạng, thiết trí ba tượng Địa Tạng, Tiêu Diện và Hộ Pháp nên còn gọi là bàn Tam Bảo ngoại. Vật phẩm trong đàn cúng chẩn tế chia làm hai phần 1. Cung thỉnh chư Phật, Bồ tát, thần thánh… triệu thỉnh chư hương linh, vong hồn. 2. Vật phẩm cúng thường có 6 loại hương, hoa, đăng, trà, quả, thức ăn, gọi chung là lục cúng. Thức ăn cúng Phật chỉ gồm đồ chay, thường là cơm và xôi chè. Riêng với thần thánh thì tùy người tổ chức, có thể cúng cả chay và mặn, ngoài ra còn có lá phan và bảo cái. Thực phẩm cúng cho nhóm đối tượng thứ hai rất đa dạng. Ngoài hương, hoa, đăng, trà, quả, thức ăn, còn có một số khác bắt buộc, như gạo, muối, cháo loãng, cốm nổ, xôi chè, tiền cúng, mía, các loại khoai,… tùy vào gia chủ mà có thêm vàng mã. Riêng miền Bắc sẽ có oản. Tùy điều kiện gia chủ, có thể thêm nhiều đồ cúng khác như kẹo bánh, áo quần thật. Vật cúng có thể treo lên “cộ” giá đỡ hình chóp, bằng tre, dán giấy bên ngoài hoặc xếp trên mâm và bàn. Đặc biệt, nghệ thuật diễn xướng trong lễ cúng là đỉnh cao về nghệ thuật diễn xướng của âm nhạc Phật giáo. Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Khê, “… nét nhạc của các bài tụng, tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng. Mà thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru và những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng…. Có hai điệu thức chính được dùng điệu Thiền dùng hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử miền Nam và điệu Ai. Các điệu thay đổi tùy theo nội dung bài” [4]. Trong một lễ cúng, về phía ban kinh sư, một vị đàn chủ phải đầy đủ oai nghi phẩm hạnh, chất giọng tốt, am tường chữ Hán và nghệ thuật diễn xướng. Các lối diễn xướng được sử dụng trong lễ cúng gồm Bạch, Nói, Thỉnh, Nguyện, Đọc, Tụng, Vịnh, Tán. Để một lễ cúng chẩn tế thành công, phải đầy đủ yếu tố hình thức và tâm thức. Về hình thức, đây là lễ cúng theo nghi thức quỷ của Mật tông Tây Tạng, nên đàn tràng phải đúng pháp thức của khoa nghi Mật giáo. Về tâm thức, ban kinh sư và gia chủ cùng những người tham gia phải có sự chuyên tâm. Đàn tràng càng đông người thuộc mọi giới tham dự, càng vận động được nhiều sức mạnh ủng hộ của tập thể. Trong lễ cúng, nếu gia chủ và những người đến dự đều vui vẻ, hài lòng, toàn tâm toàn ý cầu nguyện, kết hợp với sự tinh chuyên của ban kinh sư sẽ giúp ích cho cả người sống lẫn người chết. Ở miền Trung và miền Nam, lễ cúng chịu ảnh hưởng dòng thiền Lâm Tế. Nhà sư Nguyên Thiều và các đệ tử là những người đầu tiên đưa lễ này vào Đàng Trong. Tại đây, lễ cúng chủ yếu dựa vào bản kinh “Chánh khắc Trung khoa Du Già tập yếu”, rút gọn từ “Du Già diệm khẩu thí thực đàn nghi” của sư Vân Thê Châu Hoằng. Tùy từng vùng, lễ cúng còn chịu ảnh hưởng của thổ âm địa phương. Trang phục và pháp khí trong lễ cúng chẩn tế Nam bộ cho thấy hiện tượng giao lưu văn hóa mạnh mẽ và mang đậm dấu ấn vùng miền. ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ CÚNG CHẨN TẾ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA PHẬT TỬ NGƯỜI VIỆT NAM BỘ Nam bộ với điều kiện tự nhiên và thành phần dân cư đa dạng đã hình thành những đặc điểm văn hóa khác nhau, trong từng giai đoạn lịch sử. Đồng hành với quá trình phát triển đó, lễ cúng chẩn tế cũng đóng góp những giá trị thiết thực vào đời sống nhân dân nói chung và Phật tử nói riêng. Trong đời sống cá nhân Quan niệm coi trọng người đã khuất, các bậc tiền bối,… đã chứng minh cho tấm lòng thương nhớ, tính nhân bản của con người. Đó còn là sự cầu mong cuộc sống bình an, thể hiện yếu tố trọng lý và trọng tình trong văn hóa phương Đông. Mặt khác, tâm lý tiếc thương người thân đã mất đưa đến suy nghĩ người thân có thể đang chịu cảnh thiếu thốn, khổ đau và cần sự giúp đỡ. Với cư dân Nam bộ, đặc biệt ở buổi đầu đất rộng người thưa, nhiều thú dữ và bệnh dịch, mối quan hệ giữa các thành viên gia đình do vậy rất quan trọng. Sự ra đi vĩnh viễn của bất kỳ thành viên nào cũng khiến gia đình hụt hẫng, trống vắng. Ngoài ra, việc thường xuyên di chuyển chỗ ở khiến mồ mả người thân không có điều kiện trông nom. Vì vậy, việc tổ chức lễ cúng tưởng nhớ người thân đã khuất, cầu mong được cảm thông và tha thứ, mong giải tỏa oan khuất, dằn vặt, cầu nguyện cho họ được thanh thản siêu thoát, cầu xin người đã khuất phù hộ cho người sống bình an vô sự là chuyện nên làm khi điều kiện cho phép. Trong đời sống cộng đồng Ở cư dân nông nghiệp, yếu tố cộng đồng rất quan trọng, “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Lễ cúng chẩn tế để cầu an hay cầu siêu, dù do cá nhân hay tập thể tổ chức, cũng phải đủ ba hoạt động cúng Phật, cúng những vị thần ở địa phương diễn ra lễ cúng thần Thành Hoàng Bổn Cảnh và cúng hương linh, vong linh, tri ân các anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn trong các cuộc chiến tranh và thiên tai bão lũ, cầu mong cho họ được sanh về cảnh giới an lành. Đặc biệt, trong các lễ cúng do cá nhân tổ chức, ngoài tên của người được cúng chính và ông bà tổ tiên gia chủ, những người đến tham gia cũng được khuyến khích gửi tên thân nhân của mình để cầu siêu. Về tâm linh, một gia đình hay tập thể tổ chức lễ cúng thì lợi ích cho cộng đồng lớn hơn, chứ không đơn thuần chỉ cho đối tượng được xướng danh, như người xưa có câu “nhất nhơn tác phước thiên nhơn hưởng, độc thọ khai hoa vạn thọ hương” một người làm việc tốt nhiều người hưởng chung, trong vườn có cây hoa nở hoa thì cả vườn thơm lây. Về thực tế, khi tổ chức một lễ cúng cần huy động rất nhiều người, ngoài những người gửi tên cầu siêu ra, những người không gửi hoặc là Phật tử cũng có thể đến giúp đỡ. Trong khi cử hành lễ cúng, về lý, vị Sám chủ đội mão Tỳ lư, mặc y gấm, là hình ảnh Bồ tát Địa Tạng đại diện cho Phật thuyết pháp và bố thí thức ăn cho vong hồn. Nhưng ở góc độ phi tôn giáo, hình ảnh thầy sám chủ mặc trang phục đẹp, ban kinh sư dùng pháp khí với nhạc lễ xung quanh,… tất cả những yếu tố đó tựa như một hình thức diễn xướng nghệ thuật. Không chỉ đối với Phật tử người Việt, lễ cúng chẩn tế còn là cơ hội giao lưu giữa các cộng đồng cư dân Chăm, Khmer, Hoa, Việt… trên vùng đất Nam bộ. Về tôn giáo, lễ cúng chẩn tế thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo. Một việc làm vì nhiều người, không chỉ riêng cho cá nhân nào. Một lễ cúng không chỉ phục vụ nhu cầu thiết thực của gia chủ, mà còn hướng lợi ích an lạc cho nhiều đối tượng khác. Có thể nói, được truyền vào Nam bộ từ thuở sơ khai, lễ cúng chẩn tế đã tồn tại và tiếp sức người dân và những Phật tử nơi đây. Trong đời sống, với hoàn cảnh khó khăn ở vùng đất mới, việc tổ chức cầu an, cầu siêu giúp người sống vơi bớt phần nào khổ đau, mất mát. Những hiểm họa bất an nơi vùng đất mới hoang vu cũng làm cho người dân canh cánh nỗi lo, nỗi sợ hãi, việc tổ chức lễ cúng chẩn tế ngoài mong muốn giúp người chết giải thoát, còn là khát vọng cho người sống được yên ổn, tránh bệnh tật và làm ăn thuận lợi. Lễ cũng là cơ hội để mọi người có dịp gần gũi, tìm hiểu và thông cảm nhau hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, những tiết tấu diễn xướng trong lễ cúng cũng góp phần làm cho cuộc sống người dân bớt đi sự buồn tẻ nơi đất lạ. Tồn tại và phát triển ở Nam bộ, lễ cúng chẩn tế tiếp thu những yếu tố văn hóa địa phương, đồng thời chịu tác động từ các yếu tố khác như hoạt động kinh tế, bối cảnh chính trị – xã hội, điều kiện tự nhiên,… Lễ cúng chẩn tế cũng phần nào phản ánh mối quan hệ, giao lưu, tiếp biến văn hóa của các cộng đồng dân tộc cùng sống cộng cư hoặc cận cư ở Nam bộ. Chú thích * Đào Ngọc Lam Phương – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐHQG TP HCM. [1] Hoàng Phê chủ biên 2006, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, [2] Thích Nhất Hạnh 2007, Đại trai đàn bình đẳng tế xuân Đinh Hợi 2007 tại Việt Nam, [3] Quan niệm cho rằng nước Cam lộ giúp người uống hoặc sử dụng được khỏe mạnh. [4] Trần Văn Khê 2001, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, đăng trên Nguyệt san Giác ngộ số 59, 2/2001, Tài liệu tham khảo 1. Dương Chí Cang 2000, Nghiên cứu chế độ lễ nghi Trung Quốc, Nxb ĐHSP Hoa Đông. 2. Trần Văn Khê 2001, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, đăng trên Nguyệt san Giác ngộ số 59, 2/2001. 3. Hoàng Phê chủ biên 2006, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 4. Trần Hồng Liên 2007, Quá trình hình thành và phát triển nhạc lễ Phật giáo Nam bộ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Sư Nguyệt Chiếu với sự nghiệp nhạc lễ cổ truyền Nam bộ”, Nxb Văn hóa Thông tin.
Ý Nghĩa Lễ Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn Tỳ kheo Thích Ngộ Định Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính thưa toàn thể quý Phật tử, quý đồng hương thân hữu, Hôm nay, chùa Từ Quang tổ chức Đại lễ kỷ niệm Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đản sanh, lễ cung nghinh an vị Tôn tượng chư Phật và Bồ tát. Vì lòng từ bi rộng lớn, nghĩ đến chư hương linh, chư âm linh cô hồn không nơi nương tựa trong chốn Già lam Từ Quang và toàn thể vùng Garland, Nhị vị Trú Trì chùa Từ Quang đã thiết lập đàn tràng Chẩn tế cô hồn, một lòng thành tâm cung thỉnh chư tôn đức Tăng vân tập về đây hành trì pháp sự khoa nghi, để cầu siêu độ cho chư hương linh, chư âm linh cô hồn, chúng sanh đang chịu khổ hình trong ba cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… chúng tôi có duyên được nhị vị Trú Trì cho phép nói đôi điều về ý nghĩa chẩn tế cô hồn với quý Phật tử. Trong thời gian hạn hẹp, không thể trình bày một cách chi tiết về khoa nghi chẩn tế, cách thức hành trì Pháp sự, mà chúng tôi chỉ nói ngắn gọn về ý nghĩa, tác dụng và lợi ích của khoa nghi chẩn tế mà thôi. Lời đầu tiên chúng tôi muốn nói là vô cùng hoan hỷ với việc làm đầy lòng từ bi, có ý nghĩa tác động đến tâm thức chúng sanh ở cả cảnh giới người còn, kẻ mất của Quý Thầy chùa Từ Quang. Chúng tôi thành tâm cầu nguyện cho Phật sự được viên thành, cầu nguyện chư hương linh của quý Phật tử, chư âm linh cô hồn, oan hồn uổng tử bị chiến tranh, biến động thiên tai, những hương linh trầm mình trong biển cả trên con đường vượt biển tìm tự do và chân lý đều được siêu sanh về miền tịnh cảnh. Kính thưa quý vị, Nói đến khoa nghi chẩn tế âm linh cô hồn thì không thể không nói đến nghi lễ của Phật giáo. Nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo trên thế giới đều đồng ý rằng một tôn giáo phải có đủ ba yếu tố triết học, nghi lễ và thần thoại. Phật giáo là một tôn giáo nên Phật giáo cũng có đầy đủ ba yếu tố trên. Tuy nhiên, Phật giáo là tôn giáo không có thượng đế nên yếu tố nghi lễ và thần thoại của đạo Phật mang sắc thái và ý nghĩa khác với các tôn giáo khác. Vậy yếu tố nghi lễ trong đạo Phật được định nghĩa như thế nào? Nghi có nghĩa là nghi thức, khuôn phép, dáng mẫu… Lễ là lễ giáo, lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính… Vậy nghi lễ có ý nghĩa rất rộng, bao trùm cả hành vi, thái độ, văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ, phong cách của con người trong xã hội. Trong nghĩa hẹp thì nghi lễ là nghi thức hành lễ tụng niệm mang tính tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo. Nghi lễ của Phật giáo thường đi đôi với nhạc lễ – nhạc, tùy theo truyền thống văn hóa nghệ thuật của mỗi miền mà nghi lễ Phật giáo sẽ ảnh hưởng truyền thống văn hóa của miền ấy. Ví dụ âm điệu tán tụng và nhạc của chư Tăng xứ Huế thì mang sắc thái âm nhạc cung đình với những điệu Nam Ai, Nam Bình, Kim Tiền, Lưu Thủy… Nghi lễ Phật giáo của chư Tăng miền Bắc thì âm hưởng lại mang màu sắc của tuồng chèo, có một số bài tán tụng mang âm hưởng của Quan họ Bắc Ninh… trong khi những điệu tán, tụng, xướng kệ của chư Tăng miền Nam lại mang sắc thái cải lương, tuồng cổ… Nói chung, nghi lễ Phật giáo mang màu sắc lễ nhạc cổ truyền của dân tộc, đậm nét văn hóa truyền thống, cần phải tôn trọng và giữ gìn. – Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm, người tu tập dựa vào đức tin để có những tiến hóa về mặt tâm linh mà trong kinh Trung Bộ Đức Phật gọi là quả vị tu chứng “tùy tín hành” là một trong bảy quả vị, quả vị này thuộc về tình cảm hay niềm tin đối với Tam ý nghĩa đó thì nghi lễ là món ăn tinh thần không thể thiếu của người Phật tử. – Nghi lễ nghệ thuật hóa triết lý Nền triết lý của đạo Phật rất cao siêu, không phải người nghiên cứu một sớm một chiều mà có thể hiểu và quán triệt được toàn bộ. Vì vậy đối với người bình dân khó có thể thâm nhập khi bước đầu học Phật được tức khắc. Nghi lễ là con đường đưa người vào đạo bằng con tim, chứ không phải bằng khối óc. Thông qua nghi lễ, đạo lý cao siêu được cảm nhận. triết lý được nghệ thuật hóa một cách nhẹ nhàng và mang âm hưởng của văn thơ, ngôn ngữ, diễn tả cảnh tình hết sức thanh thoát. Thi sĩ không cần dùng nhiều từ ngữ để bày tỏ tâm tư tình cảm…. Quý vị thử tìm hiểu trong nghi Chẩn tế cô hồn sẽ thấy rõ văn thơ tả cảnh tuyệt vời “Từng nghe rằng mặt trời gác núi, tối sáng giành nhau. Bầu trời đầy sao, thế giới bùng lên ánh lửa lửa tham lam, sân hận, si mê. Từng đàn chim bay về tổ ấm, kẻ nông phu người ngựa dắt díu nhau về. Trên chòi cao đầu làng, thỉnh thoảng điểm trống cầm canh, dưới bờ suối róc rách tiếng gió lùa vào ngọn cỏ. Lầu cao đã kín cổng, chòi cỏ cũng thâm u. Chính lúc này là thế giới của ngạ quỷ, vì vậy nên mở lòng từ khai đàn pháp sự để cứu độ chư âm linh oan hồn uổng tử.” Ngôn ngữ và âm nhạc đã góp phần làm cho nghi Chẩn tế cô hồn được cảm nhận bằng trực giác hay tình cảm chứ không bằng suy tư, lý luận. – Nghi lễ là phương tiện độ sanh Có những người không bao giờ đến chùa để quỳ lạy hay tụng kinh, có những người không bao giờ chịu nghe giảng Pháp… có lẽ nhân duyên chưa có. Nhưng khi có dịp ma chay, đám giỗ, quý Thầy giúp đỡ lễ tang, từ đó họ phát tâm đi chùa, tụng kinh niệm Phật, nghiêm tầm kinh lý. Đó là một phương tiện độ sanh hữu hiệu. – Nghi lễ làm trang nghiêm tâm và đạo tràng Một cuộc lễ đúng cách có thể làm cho tâm hồn định tĩnh, chuyên chú trang nghiêm. Khung cảnh của nghi lễ làm cho người đi vào quy củ, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt một cách tự nhiên. Theo kinh “Phật thuyết cứu bạt diệm khẩu đà la ni chú”, sách “Thí ngạ quỷ ẩm thực cập thủy pháp”, “ Du già tập yếu cứu A Nan đà la ni diệm khẩu quỷ nghi kinh” và “Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi” có viết rằng Một hôm nọ, ngài A Nan đang nhập thiền định thì một vị ngạ quỷ Diệm Khẩu xuất hiện và nói với ngài A Nan rằng, trong ba ngày nữa ngài A Nan sẽ chết, nếu muốn vượt qua khổ nạn này thì nên đem thức ăn, nước uống nhiều bằng số cát sông Hằng để bố thí cho các loài ngạ quỷ đang đói khổ. Xuất thiền, Ngài A Nan vô cùng lo âu, tự nghĩ rằng thân xuất gia, ngày ngày đi khất thực của đàn na tín thí, làm sao có đủ phẩm vật để cứu vớt chúng ngạ quỷ được đây. Ngài trình lên đức Phật. Đức Phật khuyên ngài A Nan chớ có lo sợ và dạy rằng “Trong một kiếp về quá khứ, đức Phật sinh ra trong một gia đình Bà La Môn, và đã được học hỏi pháp bí yếu chân ngôn Đà la Ni có tên là Biến Thực Biến Thủy chân ngôn. Pháp này có thể trì tụng, thân khẩu ý thanh tịnh, biến một thành mười, mười thành trăm vạn ngàn ức, nhiều bằng số cát sông Hằng để có thể cứu giúp các loài ngạ quỷ đang đói khổ.”. Và đức Phật đã truyền lại cho ngài A Nan để cứu khổ ngạ quỷ. Từ đó về sau, mỗi lần thọ trai, các đệ tử của Phật thường sớt phần ăn của mình lại để bố thí chúng sanh và ngạ quỷ. Mãi về sau, chư Tổ sắp xếp lại theo thứ lớp cúng Phật, cúng Tổ, thí thực ngạ quỷ cô hồn trước khi chư Tăng thọ trai. Tại chùa, cúng thí thực cô hồn là một phần không thể thiếu trong hành trì thiết yếu hằng ngày vào thời công phu chiều. Tại Việt Nam, bất cứ thời gian và không gian nào, khi trong tư gia có đám giỗ, ma chay đều có cúng thí thực cô hồn. Đơn giản thì một mâm nhỏ, 1 nồi cháo trắng gọi là cúng cô hồn, cúng kẻ khuất mặt mày, không nơi thờ tự, không người cúng tế để thể hiện lòng từ bi của đạo Phật. Đến đời nhà Tống, Cam lồ Pháp Sư lập một trai đàn cúng thí thực trên đỉnh núi Mông thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Phần khoa nghi dựa theo kinh chú Phật thuyết và lời cầu nguyện tóm lược như sau 1. Trình bày tất cả do tâm tạo qua bài kệ Hoa nghiêm Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo. 2. Nguyện xa lìa cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá tan mọi phiền não, sám hối tội lỗi, giải sạch oan khiên qua thần chú Phá Địa ngục chân ngôn, phổ triệu thỉnh chơn ngôn, giải oan kết chân ngôn…. 3. Cung thỉnh mười phương Tam Bảo, Đức Thích Ca, Đức Quán Âm, Đức Địa Tạng, và ngài A Nan giáng lâm đàn tràng chứng minh. 4. Hướng dẫn chúng sanh quy y Tam Bảo. 5. Sám hối nghiệp chướng Tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình, bao gồm cả người cúng và người được cúng phải thành tâm sám hối mới có lợi lạc. 6. Phát đại nguyện thề cứu độ hết chúng sanh, thề phá hết phiền não, nguyện học các pháp môn tu tập, thề nguyện thành Phật đạo. 7. Diệt tội Thành tâm sám hối, phát đại nguyện và hành giả tụng các thần chú mới có linh cảm như chú Diệt Định nghiệp chơn ngôn của Ngài Địa Tạng, Diệt bất định nghiệp chơn ngôn của Ngài Quán Âm. 8. Tuyên thuyết định giới Thần chú khai yết hầu chơn ngôn và Tam Muội gia giới chơn ngôn để chúng sanh diệt trừ chướng ngại, mở rộng yết hầu thọ hưởng pháp thực, thọ xong giữ giới để thoát phiền não nghiệp chướng. 9. Biến thức ăn thành pháp vị Biến thực chơn ngôn, biến thủy chơn ngôn, nhất tự thủy chơn ngôn, nhũ hải chơn ngôn khiến cho chúng sanh ngạ quỷ thọ hưởng được sung mãn. 10. Kết nguyện thần chú gia trì tịnh pháp thực, tất cả chúng sanh cô hồn đã no đủ, xả hết tâm tham lam mau thoát cảnh địa ngục u đồ, trì chú “Vô giá thực chơn ngôn” phá tan sự ngăn ngại thánh phàm, tăng tục, bình đẳng thọ hưởng cam lồ pháp vị. 11. Hồi hướng Cầu cho tất cả chúng sanh an lành, vãng sanh cực lạc. Khoa nghi chẩn tế cô hồn có ba điểm 1 tâm thành 2 kinh chú 3 thân khẩu ý thanh tịnh. Chú trọng đến siêu độ cho các âm linh oan hồn uổng tử, chết bất đắc kỳ tử, bất định nghiệp, chiến sĩ trận vong không nơi nương tựa. Không những cúng tiến thức ăn nước uống mà còn gia trì Pháp sự, thực hành mật tông, một lòng cầu mong cho chư vị thoát khỏi cảnh khổ, nghiệp ác của cõi ngạ quỷ được tiêu trừ. Một khoa nghi rất nhiều lợi lạc nhưng rất khó hành trì, vì đòi hỏi sự tinh thông cả hai mặt kinh điển và mật điển. Mật điển của khoa Du Già chẩn tế cô hồn là Tam Mật đồng tu – Thân kết ấn thì thân nghiệp thanh tịnh không tạo các tội ác. – Miệng niệm thần chú thì khẩu nghiệp thanh tịnh, không nói các lời ác. – Ý quán tưởng thì ý nghiệp thanh tịnh không nghĩ các điều ác. Khi cả thân khẩu ý đều thanh tịnh thì gọi là Tam mật tương ưng, hòa nhập vào cảnh giới của chư Phật, chư Bồ Tát. Chư Kinh sư trong trai đàn thành tâm cầu nguyện mười phương Chư Phật gia hộ, tam nghiệp thanh tịnh, phát khởi tam tâm từ bi, hỷ xả, bình đẳng để độ thoát chúng sanh trong cõi địa ngục ngạ quỷ, súc sanh tam đồ ác đạo. Có thể nói đây là một pháp hành trì mà âm cảnh và dương gian đồng lợi lạc. Vì vậy vị chủ sám gia trì sư và chư vị kinh sư phải là những người hành trì và giới hạnh nghiêm minh, luôn thanh tịnh thân tâm, đủ sức thần giao cách cảm trong lời chú nguyện khiến thức ăn biến thành Pháp vị để chúng sanh trong các loài ngạ quỷ được thọ dụng và nhờ vào công đức lực cầu nguyện mà cô hồn được siêu sanh tịnh độ. Trong đạo Phật có vô lượng pháp môn tu tập. Mỗi pháp môn tu tập đều tùy theo khả năng lãnh ngộ và căn cơ của mỗi chúng sanh. Nhưng tất cả các pháp môn đều đưa hành giả đến mục đích cuối cùng là đạo quả giải thoát. Có người thích pháp môn Thiền tập, có người thích lễ lạy xưng dương tán thán hồng danh chư Phật, có vị thích pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh, có người thích pháp môn Mật tông để đi hành trì khoa chú…. Chọn pháp môn nào để tu tập là tùy theo căn tánh của chúng sanh. Chúng ta không thể phân biệt pháp môn nào hơn pháp môn nào, hoặc cho rằng pháp môn nào chánh thống, pháp môn nào dị biệt cả. Cũng như con đường đến chùa Từ Quang. Có người thích đi xe hơi, có người đi bộ, có người đi xe bus. Đi bằng phương tiện gì không quan trọng. Quan trọng là có đi đến chùa bằng tâm thành hay không? Và cho dẫu tu pháp môn nào đi nữa thì Thiền-Tịnh -Mật Tam mật phải tương ứng. Có nghĩa là thân khẩu và ý phải thanh tịnh, mới mong thoát khỏi phiền não và an lạc giải thoát thật sự. Trong thời gian 45 phút hạn hẹp, chúng tôi không thể trình bày một cách sâu rộng để đáp ứng lòng mong mỏi của quý vị về khoa nghi chẩn tế cô hồn. Hy vọng có dịp chúng tôi sẽ trình bày nhiều hơn. Vì khoa nghi chẩn tế là một thế giới Mật tông, đòi hỏi phải có sự tu trì và nghiên cứu nghiêm minh. Chắc chắn rằng chúng tôi đã thiếu sót vì trí lực còn non nớt, mong quý vị hoan hỷ lượng thứ. Cuối cùng, chúng tôi thành tâm cầu nguyện hồng ân mười phương Tam Bảo gia hộ cho chư Tăng và Phật tử chùa Từ Quang thân tâm an lạc, Phật sự viên thành, nguyện chúc ngôi già lam Từ Quang ngày một xương minh. Mang ánh sáng trí tuệ, từ bi của đạo Phật chiếu rọi vào cõi u đồ tăm tối, để cứu vớt chúng sanh đang lặn ngụp trong cõi trầm luân đồng thành Phật đạo. Nam mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát Tác Đại Chứng Minh.
Miền Trung từ lâu đã được coi là khu vực vất vả khó khăn cho người dân bởi thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Vậy nhưng, vào mỗi dịp năm mới về cũng như khắp nơi trên cả nước, người dân miền Trung ở mọi hoàn cảnh nào thì cũng vẫn náo nức đón Tết theo cách riêng của mình. Tết đến mang cho mọi người dân ở miền Trung một năm mới ấm no và khiến cho họ tạm quên đi cái vất vả khó khăn và cái khí trời mà họ đã trải qua trong một năm cũ. Nơi nào cũng vậy, phong tục Tết của mỗi miền mỗi khác, bạn đã biết gì về phong tục Tết của người miền Trung chưa? Hãy cùng Art Travel tìm hiểu xem nhé! 1. Chợ Tết Chợ Tết được mọi người dân coi là một nét văn hóa rất riêng tại Việt Nam, nhất là ở những vùng nông thôn miền Trung. Nhắc đến Tết là không thể nhắc đến chợ hoa. Thời điểm tổ chức chợ Xuân cũng là thời điểm mà mọi người dân đổ xô ra đường chọn lựa cho nhà mình những cây hoa đẹp nhất để đón năm mới. Một chợ hoa xuân ở miền Trung có thể sưu tập đầy đủ bất kỳ loài hoa nào từ Bắc đến Nam với vô số các loại vô cùng đa dạng về màu sắc, phong phú về kiểu dáng. Tuy nhiên cũng giống phương Nam, người miền Trung thường mua về những cây hoa mai vàng rực rỡ trong những ngày đón Tết. Chợ Tết miền Trung luôn tấp nập người mua kẻ bán với không khí nhộn nhịp 2. Mâm Cỗ Người miền Trung ăn cả bánh chưng và bánh tét vào dịp Tết thế nhưng chỉ cúng bánh chưng trong các mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình. Vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu. Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến gồm đủ các thành phần. Dù cho những món ăn không được đa dạng và hấp dẫn nhưng những thói quen và truyền thống đón Tết của người miền Trung cũng rất độc đáo, hấp dẫn và góp phần đa dạng màu sắc ngày Tết nguyên đán của người Việt Nam. Mâm cỗ truyền thống đón Tết độc đáo của người miền Trung >>Xem thêm Lễ hội Pháo hoa Quốc Tế Đà Nẵng 2018 có gì mới? 4 lễ hội lớn tại miền Trung mà bạn không thể bỏ lỡ. Ngũ Quả Người dân quê miền Trung cũng không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, bởi ta đều biết từ lâu miền Trung là miền khó khăn nhất trong các vùng miền Việt Nam. Trong mâm ngũ quả của người miền Trung, chủ yếu là có gì cúng nấy, chỉ cần ta có thành tâm dâng kính tổ tiên. Người miền Trung không hay dùng các loại chuối, trái cây có vị đắng, cay, mà chỉ chọn loại có vị ngọt, tròn, thơm và lâu hư úng để chưng mâm ngũ quả cho đẹp mắt, độc đáo, mong cầu an vui, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Ngược lại, người miền Trung sẽ không chưng các loại cam hay quýt bởi người dân tin theo quan niệm "cam đành quýt đoạn". Mâm ngũ quả ngày Tết với quan niệm "cam đành quýt đoạn" của người miền Trung 4. Cúng Ông Táo Trong mâm cơm cúng ông Táo của người miền Trung thường chỉ có xôi, thịt heo luộc và ít hoa quả bởi người dân miền Trung có quan niệm kiêng kị cúng cá chép. Vậy nên, so với các nghi lễ vào ngày Tết của người miền Bắc thì ở miền Trung đơn giản hơn rất nhiều. Sau lễ cúng, ba ông Táo của các gia đình sẽ được thay mới, các ông Táo cũ được đem đi đặt ở một góc đình, miếu hoặc gốc cây đầu làng là những nơi linh thiêng, không ai dám xâm phạm. Thời gian cúng ông Táo tại miền trung là vào ngày 23 tháng Chạp. Mâm cúng ngày lễ tiễn đưa ông táo về trời 5. Ngày cuối cùng của năm Vào ngày cuối cùng của năm là ngày 30 Tết, người dân miền Trung vào buổi sáng sẽ đi đến mộ thắp hương cho ông bà tổ tiên và mời họ về ăn Tết với con cháu trong nhà. Sau đó sẽ đi sắm sửa những vật dụng cuối năm và làm mâm cúng Tất Niên. Người dân quan niệm rằng vào những ngày cuối năm nên trả hết những món nợ để tránh trường hợp chủ nợ đòi vào đầu năm sẽ mang vận xui đến cho gia đình. Vào chiều 30 Tết, nhà nhà đều làm lễ Tất Niên để tiễn năm cũ đón năm mới. Lễ này thường có một mâm ở bàn thờ gia tiên, một mâm ở giữa nhà và mâm thị thực đặt ở trước cổng. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau trong không khí ấm ấp, rộn ràng cạnh nồi bánh chưng, bánh tét. Lễ cúng tất niên tiễn năm cũ đón năm mới của người miền Trung Miền Trung - Miền đất thân thương và đáng nhớ! BTV Trương Mẫn Vy
Cách làm tương ớt xào hay còn gọi là sa tế miền trung sao cho chuẩn hương vị miền Trung sẽ được Món Miền Trung chia sẻ qua bài viết sau đây. Tương ớt xào có hương vị cay nồng, đậm đà, thường được dùng để ăn kèm với nhiều món ăn như hủ tiếu, bún bò, cơm chiên, bánh tráng, bún chả cá, miến gà,…Công thức làm tương ớt xào không khó, nguyên liệu lại dễ tìm. Vậy bạn còn chần chờ gì nữa mà không vào bếp để trổ tài ngay. Xem thêm Bánh xèo6 món ngon tại quảng namCách làm bánh bột lọc Cách làm sa tế miền TrungCách làm sa tế ăn bún bòCách làm sa tế tỏi ớtHọc làm sa tế ớt 1. Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Bình Định ngon nhất Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Bình Định ngon nhất Nguyên liệu chế biến tương ớt xào Bình Định Cách làm món tương ớt xào Bình Định khá nổi tiếng và được người dân của nhiều vùng, miền khác yêu thích bởi hương vị đậm đà và thơm cay. Để thực hiện tương ớt rim Bình Định, bạn cần chuẩn bị đầy đủ những nguyên liệu sau Ớt tráiCà chuaỚt khôHànhTỏiGia vị Dầu ăn, đường, giấm, muối, rượu… Bạn ơi, cho mình quảng cáo 1 tí nhé! Hiện tại Cửa hàng Món Miền Trung có bán Dừa Sấy Giòn giá tốt nhất thị trường. Có cơ hội hãy ủng hộ mình nhé! Mua ngay Cách làm tương ớt xào Bình Định Bước 1 Sơ chế và luộc ớt Khi mua ớt, bạn nên chọn những quả chín đỏ tươi. Sau khi mua về, bạn đem ớt đi rửa sạch, bỏ cuống rồi vớt ra rổ để ráo nước. Tiếp đến, bạn xẻ dọc ớt ra và bỏ hết hạt ớt vào nồi nước sôi luộc khoảng vài phút, thêm vào nồi chút rượu để ớt giữ được màu đỏ tươi lâu hơn. Khi ớt chín mềm, bạn vớt ớt ra để nguội và giữ lại phần nước luộc ớt nhé. Bước 2 Cách xay nguyên liệu và xào tương ớt Đem hành tỏi đi bóc vỏ, cho cà chua đã rửa sạch cùng ớt luộc vào máy xay, sau đó, tiến hành xay nhuyễn. Trong khi xay, bạn lần lượt cho thêm nước luộc ớt và giấm vào xay cùng tỏi băm nhỏ rồi cho vào chảo dầu phi thơm, đảo đều, cho đến khi hành tỏi săn lại thì nêm vào ít muối, đường và hạt nêm. Sau cùng, bạn đổ hỗn hợp ớt đã xay nhuyễn vào chảo và vặn lửa lớn. Bạn đun đến khi hỗn hợp rút bớt nước thì nêm lại gia vị cho vừa ăn rồi tắt bếp. Đợi tương ớt nguội bạn cho vào lọ thủy tinh để bảo quản nhé. Bạn có thể cho thêm chút dầu ăn vào tương ớt để giữ được lâu hơn. 2. Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Đà Nẵng chua ngọt Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Đà Nẵng chua ngọt Nguyên liệu chế biến Tương ớt Đà Nẵng có vị cay thanh của ớt tươi, vị chua nhẹ của cà và vị ngọt thanh của đường cát. Cách làm tương ớt xào Đà Nẵng cũng rất đơn giản, trước hết bạn hãy chuẩn bị các nguyên liệu sau 500 gram ớt quả cay4 quả cà chuaHành, tỏi100 gram đường, bột nêm20 gram muối Chuẩn bị ớt cay để làm tương ớt xào Đà Nẵng. Ảnh Internet. Cách làm tương ớt xào Đà Nẵng Bước 1 Sơ chế ớt và cà chua Bước đầu tiên trong cách làm tương ớt xào Đà Nẵng là sơ chế nguyên liệu, bạn đem ớt đi rửa sạch, bỏ cuống, chẻ dọc rồi bỏ hết hạt ớt. Cho ớt vào nồi luộc chín mềm để giảm bớt độ xong, bạn vớt ớt ra để nguội rồi băm nhỏ. Hành tỏi bóc vỏ rồi băm nhỏ, cà chua rửa sạch, băm nhỏ. Các bước sơ chế ớt trước khi làm tương. Ảnh Internet. Bước 2 Cách xào tương ớt rim làm đúng kiểu Đà Nẵng Đặt chảo lên bếp, cho 2 – 3 thìa dầu ăn vào đun nóng, cho tiếp hành tỏi vào phi thơm, sau đó đổ cà chua vào đảo đều. Cho ớt băm vào chảo rồi nêm thêm chút đường, muối, hạt nêm rồi đảo tục xào cho đến khi tương ớt dẻo lại thì tắt bếp và thêm dầu ăn vào. Đảo đều rồi để nguội, sau cùng cho tương ớt vào lọ thủy tinh để bảo quản và dùng dần. Tương ớt Đà Nẵng thường được dùng để ăn kèm với xôi, tré, bánh tráng kẹp, mít trộn,… Tương ớt xào Đà Nẵng có vị cay thanh và chua ngọt nhẹ. Ảnh Internet. 3. Hướng dẫn cách làm tương ớt rim Huế thơm cay Hướng dẫn cách làm tương ớt rim Huế thơm cay Nguyên liệu chế biến Cách làm tương ớt xào Huế có vị cay nồng và mùi thơm nhẹ, là nguyên liệu không thể thiếu trong nhiều món ăn của xứ Huế. Sau đây là những nguyên liệu cần có để thực hiện cách làm tương ớt xào Huế tại nhà 200 gram ớt bột250 gram đường cát trắng250 gram nước mắm ngon150 gram dầu ăn2 củ tỏi lớn Cách làm tương ớt xào Huế Tỏi bạn đem lột vỏ rồi đập dập, cho dầu ăn vào nồi rồi đặt lên bếp, khi dầu sôi bạn cho tỏi vào phi thơm. Khi thấy tỏi chuyển màu vàng, bạn hạ nhỏ lửa rồi cho nước mắm và đường vào. Các bước làm tương ớt xào đậm vị Huế. Ảnh Internet. Dùng đũa khuấy nhẹ cho đường tan hết, khi nước mắm và đường sôi, bạn cho ớt bột vào đảo đều nhé. Bạn đảo đến khi thấy tương ớt sệt lại thì tắt bếp. 4. Cách thưởng thức sa tế miền Trung Cách làm tương ớt xào đúng chuẩn của người miền Trung thật ra cũng dễ thực hiện, đúng không nào! Nhưng, bạn có biết nên kết hợp với món ăn nào để tạo nên hương vị ngon nhất? sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi này với những gợi ý dưới đây. Bún chả cá Bún chả cá là món ăn nổi tiếng tại nhiều tỉnh miền Trung như Đà Nẵng, Huế, Bình Định,…Người ta thường nêm thêm tương ớt xào vào nước dùng của bún chả cá để tăng thêm hương vị đậm đà. Khi ăn món bún này, bên cạnh thường có thêm 1 bát tương ớt xào để chấm kèm với chả cá dai ngon. Đây là cách thưởng thức bún chả cá ngon đúng điệu. Ăn kèm tương ớt xào với bún chả cá để tăng hương vị đậm đà. Ảnh Internet. Gia vị ướp các món nướng Khi nướng thịt hay hải sản, người dân miền Trung thường ướp thêm tương ớt xào để tạo vị đậm đà, cay nồng và màu sắc hấp dẫn cho món nướng. Không chỉ là gia vị để ướp, tương ớt xào còn là nước chấm tuyệt vời của nhiều món ăn như bánh tráng nướng, thịt nướng, bánh tráng kẹp,… Tương ớt xào là lựa chọn hoàn hảo để chấm đồ nướng. Ảnh Internet. Tré trộn sa tế miền trung Tré là đặc sản nổi tiếng của người Bình Định, nguyên liệu chính của tré là tai heo, thịt ba chỉ, thịt bò trộn đều cùng các gia vị, sau đó được gói bằng lá ổi hoặc lá chuối. Khi thưởng thức tré, người dân Bình Định thường trộn đều với tương ớt xào để tré có vị cay nồng, kích thích vị giác người dùng. Ăn kèm món này với bánh tráng nướng giòn nữa thì không còn gì bằng. Tré trộn tương ớt có vị cay nồng kích thích vị giác. Ảnh Internet. Với những hướng dẫn trên đây, hy vọng bạn có thể tự thực hiện cách làm tương ớt xào thơm ngon và cay nồng tại nhà. Tất cả nguyên liệu đều từ thiên nhiên và không dùng chất bảo quản. Tương ớt xào có hương vị đậm đà và chua ngọt nhẹ, thích hợp để ăn kèm với các món bún, ướp thịt, làm nước chấm thịt nướng,…Thay vì mua ở ngoài, khó kiểm tra chất lượng sản phẩm, hãy tự tay chế biến một hũ tương ớt rim thơm ngon, an toàn cho cả gia đình mình sử dụng nhé! Bún bò ăn kèm với sa tế miền trung Bún bò Huế là một trong những đặc sản của xứ Huế, mặc dù món bún này phổ biến trên cả ba miền ở Việt Nam và cả người Việt tại hải ngoại. Tại Huế, món này được gọi đơn giản là “bún bò” hoặc gọi cụ thể hơn là “bún bò giò heo”. Bún bò ở Huế hay được người dân ăn kèm với tương ớt để tăng vị đậm đà của món ăn. Sa tế miền trung ăn kèm với Mỳ Quảng Lần đầu tiên vào Đà Nẵng, đi ăn mỳ Quảng trên đường Đống Đa, thấy lọ tương ớt xào màu rất đẹp nhưng tôi không dám ăn. Đó là bởi “sự ám ảnh” của những loại tương không rõ nguồn gốc ở các quán ăn vỉa hè tại Hà Nội. Nhưng rồi thấy mọi người ăn ầm ầm, nên cũng “liều” cho một thìa nhỏ nhằm làm cho bát mỳ Quảng hấp dẫn hơn. Không ngờ nó quá ngon làm tôi “nghiền” liền. Tương ớt xào ở đây rất đặc biệt, nó khác hoàn toàn với món sa tế xào ở ngoài Bắc và 100% không phải là thứ tương ớt màu nhợt nhợt thông dụng kia. Nó hấp dẫn người ta từ màu sắc đỏ thắm, cay nồng của ớt, thơm thơm của hạt mè hạt vừng lẫn trong đó. Tương ớt xào không những để ăn cùng với các loại mỳ mà còn có thể cho vào cháo trắng hay trộn riêng với cơm. Bài viết tham khảo tại đây Một số từ khóa tìm kiếm liên quan Cách làm sa tế miền TrungCách làm sa tế ăn bún bòCách làm sa tế tỏi ớtHọc làm sa tế ớt
Pháp hội Trai đàn chẩn tế là nghi lễ có ảnh hưởng Mật giáo, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền. > Ý nghĩa siêu độ, bạt độ trong nghi thức Mông Sơn thí thực Nguồn gốc pháp hội Trai đàn chẩn tế Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo, tên thường trong khoa giáo là Du già Diệm khẩu, dân gian thường gọi là Phóng diệm khẩu, người Việt chúng ta gọi vắn tắt là Pháp hội Trai đàn chẩn tế, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư Kim Cương Trí đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền với các phần chú và ấn làm cơ bản. Từ thời Tống trở về sau, các Pháp sư đã bổ sung thêm phần hiển giáo giáo lý được diễn đạt bằng lời có thể hiểu được. Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo. Về niên đại Pháp hội Trai đàn chẩn tế du nhập Việt Nam, hiện nay chưa thấy một tư liệu nào nói chắc chắn. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cho rằng khoa nghi này do ngài Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa truyền vào và quảng bá ở Việt Nam đầu thế kỷ XIII. Hiện nay chúng ta còn có một tư liệu do Trúc Lâm Đệ tam tổ Huyền Quang soạn “Pháp sư đạo tràng công văn cách thức thủy lục chư khoa”. Ở nước ta, thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Có thể nói nôm na, trai đàn chẩn tế như một cuộc ủy lạo, và đối tượng ủy lạo ở đây là chúng sinh cõi âm, những cô hồn, oan hồn không nơi nương tựa, trong đó có cả người thân của mình vừa chết cũng như nhiều đời. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Có những người khi còn sống có những tư duy, lời nói và việc làm không tốt, khi chết đi, chắc chắn sẽ nhận lấy những kết cục xấu. Người học Phật có quan niệm rằng phải giúp những người đó nhận ra chân lý bằng Phật pháp, lẽ phải để họ tự nhận ra và tự tháo gỡ những trói buộc, vượt thoát các nghiệp xấu. Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Ý nghĩa của tên gọi “Du già niệm khẩu”, “Thủy lục Giải oan cứu bạt trai đàn”, "Pháp hội Trai đàn chẩn tế",... Du già là phiên âm từ Phạn ngữ, có nghĩa là tương ứng. Người hành giả hành trì khoa nghi này phải có sự tương ứng giữa thân, khẩu và ý miệng tụng chú, tay thể hiện ấn, ý quán tưởng. Diệm Khẩu là tên của một loài quỷ luôn trong tình trạng đói khát như miệng luôn đang rực lửa. Theo kinh điển, với tâm từ bi, hạnh nguyện cứu độ muôn loài đang ở trong hoàn cảnh khổ nạn, Bồ tát Quán Thế Âm đã hiện thân làm quỷ Diệm Khẩu trong lúc ngài A Nan nhập định, để ngài A Nam bạch lại với Đức Phật, mong Đức Phật phương tiện giảng pháp cứu độ cho những loài quỷ và rộng hơn là những người bị oan khiên trói buộc, những cô hồn không nơi nương tựa, bị bỏ rơi… Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Hòa thượng Nhất Hạnh đã sử dụng những từ ngữ trong khoa giáo và sắp đặt lại theo chủ đề nhấn mạnh của Hòa thượng. Hòa thượng đã gọi tên pháp hội này là “Thủy lục giải oan bình đẳng cứu bạt trai đàn” và đã có sự giải thích trên trang nhà của Đạo Tràng Mai Thôn. Tên gọi pháp hội Thủy lục có từ thời Lương Võ Đế, với tên gọi đầy đủ là “Pháp giới thánh phàm thủy lục đại trai thắng hội”, do ngài Chí Công biên soạn mà hiện nay người Hoa vẫn hành trì. Thủy lục dưới nước và trên đất liền nhưng thực ra là bao gồm cả trên không nữa, nhưng vì theo quan niệm thông thường, cảnh giới ở dưới và trên mặt đất tạo oan nghiệp nặng hơn nên nhấn mạnh trong tên gọi như thế. Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Khái niệm “cô hồn” trong Pháp hội Trai đàn chẩn tế Các kinh sư ở Trung Hoa đại lục hành trì Pháp hội Trai đàn chẩn tế có nhiều điểm khác biệt, sự khác biệt rõ nhất là rất phong phú trong âm nhạc, giọng điệu, hình thức trang nghiêm hơn. Khoa nghi chẩn tế ở nước ta đậm đà bản sắc âm nhạc dân tộc và mang đặc điểm ba miền khá rõ. Qua sự chứng kiến pháp hội Thủy lục chẩn tế của quý thầy ở Trung Hoa, khoa nghi chẩn tế của Phật giáo Việt Nam có nét đặc trưng. Và đạo lực, sự trong sáng trong tâm linh của những vị hành giả hành trì pháp hội này chính là nội dung của pháp hội. Pháp hội Trai đàn chẩn tế Thường được tổ chức vào dịp nào? Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Nhưng không khí và tình cảnh quen thuộc với mọi người đó là trong dịp tiết tháng Bảy âm lịch, trùng hợp với hai sự tích đó là câu chuyện về ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ trong Phật giáo và ngày xá tội vong nhân của Đạo giáo. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp. Vào những dịp như báo hiếu tổ tiên, cha mẹ, thầy tổ…, người ta cũng có thể tổ chức Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhằm cầu âm siêu dương thái, trong tinh thần từ bi của đạo Phật, không chỉ hạn hẹp cho người thân mà còn cầu cho tha nhân, các chúng sinh khác. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp.
nghi thức chẩn tế miền trung